Thi Ẩm Lâu

Phiên bản đầy đủ: Ngẫu Hứng Thơ
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Bạn có thể xem bản đầy đủ.
Trang: 1 2 3 4
1.
Trời mưa tháng chạp tạt vào người
Lữ khách bên ngoài chẳng thảnh thơi
Cử tử còn đeo theo hội thí
Gió lay trang sách, gió rung trời

Mối tình khuê các vẫn còn xa
Khó tránh gia phong với đạo nhà
Phận rách nho sinh là phận hẩm
Hẩm hiu phận bạc, hẩm yêu hoa...
PD
2.
Vũ trụ xưa nay xoay tám hướng
Luân hồi sáu ngã lẽ bình thường
Tuy thế,người trần chưa hiểu rõ
Gặp nguy mới biết chữ hoàn lương
pd
3.
Họa vướng vào thân chớ nói ngày
Đầu trâu mặt ngựa đến đêm nay
Nên đem khăn trắng treo ngoài ngõ
Hoan hỉ một mình tiếng vỗ tay

Cánh cửa Phong Đô giờ đã mở
Âm-dương hai cõi mới giao hòa
Sanh li tử biệt giờ đây rõ
Dưới bút Phán Ty khó thể qua
PD
4.
Ta đi tìm kiếm thuốc trường sinh
Lận đận đời trai,nhọc một mình
Đi khắp phương trời,đi bốn bể
Mà quên một thứ đó là "tình"
PD
5.
Ngóng xuân, ngồi tựa trướng
Đêm lạnh lùng sương rơi
Ánh đèn hiu hiu cháy
Chớp nhoáng một đời người

Vậy là Xuân sắp đến
Chẳng thấy màu hoa mai
Màu giấy là màu tóc
Từ đó, biết ưu hoài
Pd
6.Quới Nữ

Sầu vào cốt tủy, nhọc thêm men.
Mệnh hẩm như giông cột trước đèn.
Chị dặn ta đi lùng Quới Nữ.
Mong rằng hóa giải vận mình đen
PD
7.Tập làm thơ

Hôm rày, có hứng tập làm thơ
Bởi nhẽ, nơi đây lắm khách chờ
Nguyệt đỏ ôm cành sau mái dậu
Ô! thì đúng lúc kịp bâng quơ
PD
8.Quý thơ

Yêu ngôn mến ngữ chẳng làm thơ
Vẽ tệ đời chê tớ giống khờ
Bụng phệ thì nên trùm áo kín
Xinh bày xấu đậy mới nên thơ
PD
9.
Chớ nghĩ đi tu phải đến chùa.
Khi nhiều bận rộn cũng đành thua.
Dương trần, lắm kẻ hay ngồi tụng
Sớm dữ chiều gian, tối dán bùa
PD
10.Ơn đào tạo

Dưỡng dục ơn nhờ của mẹ cha
Người dành kiến thức, nhớ thầy ta
Nhìn sông mến nước đem dòng lạnh
Học giỏi yêu công ánh Nguyệt tà
Pd
Trang: 1 2 3 4