Bắt Cọp
lanhdien > 14-06-2012, 10:09 PM
Làng bẫy cọp ở Quảng Nam
Có giai thoại thuật lại rằng, sinh thời Tú Quỳ - danh sĩ nổi tiếng Quảng Nam - một lần lên thượng nguồn sông Thu Bồn, đến một ngôi làng có cái tên rất lạ: Dùi Chiêng. Nguyên do làng Dùi Chiêng nằm dọc ở thượng nguồn sông Thu Bồn, trước mặt là sông, sau lưng là núi, có hình thể như cái dùi của cái chiêng. Vốn tính tinh nghịch, khi ra về, ông có hát mấy câu chủ ý chọc mấy cô thôn nữ trong làng cho vui: "Ngày mai tui đảo dốc Bình Yên/ Các cô ở lại có chiêng không dùi/ Ra về tui những bùi ngùi/ Các cô ở lại, tui có dùi không chiêng". Làng Dùi Chiêng, nay là thôn Dùi Chiêng, xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, không những có tên lạ mà thời ấy còn được mệnh danh là làng bẫy… cọp.
Dinh Ông Trùm qua truyền miệng
Trong ký ức xa mờ, các cụ già cao tuổi, bất kể là cụ ông hay cụ bà, tám mươi hay chín mươi, đều nhớ như in rằng Dùi Chiêng xưa nổi tiếng nhất huyện về… cọp. Cọp nhiều vô kể. Chúng hay lẻn vào làng bắt trâu, bắt cả người. Và trong cuộc đấu tranh sinh tồn, cũng giống như chuyện cổ tích, người bao giờ cũng thắng, cũng chế ngự được cọp dữ. Trong đó, nhân vật làm nên kỳ tích ở vùng đất núi non trùng điệp này là ông Phạm Bá Doãn. Kế đến là Hội Hồng, con ông Bá Doãn.
Ông Nguyễn Tửu, năm nay đã 82 tuổi, một trong những lão làng thông hiểu chuyện xưa, vừa hớp ngụm nước trà ấm nóng giữa ngôi nhà dựa vào triền núi, vừa chậm rãi kể: "Hồi nửa đầu thế kỷ XX, làng Dùi Chiêng hãy còn là vùng rừng thiêng nước độc, chỉ lèo tèo năm, sáu chục ngôi nhà nằm cheo leo men theo vách núi. Khung cảnh thâm u hoang vắng. Rừng gần sát với nhà, sát đến mức nhiều khi người ta ngỡ là nhà ở trong rừng. Bởi từ nhà, chỉ vài bước chân là thấy núi, thấy rừng, nghe tiếng chim kêu, vượn hú". Bấy giờ, khi trời vừa tắt nắng, không khí lạnh từ rừng sâu, núi cao bắt đầu tràn xuống, nhà nào nhà nấy cửa đóng kín mít. Không ai dám ra ngõ. Thậm chỉ tiểu tiện, đại tiện cũng trong nhà. Nhiều đêm nghe tiếng cọp đi qua đi lại mà lạnh cả xương sống. Nhớ chuyện cũ, ông Nguyễn Tửu chưa hết bàng hoàng. Trong đó, có lắm chuyện sởn tóc gáy. Nhất là chuyện nửa đêm cọp về, lấy chân cạ cạ vào vách phên bằng đất. "Bấy giờ, cọp nhiều, dân lại ít, chúng dạn dĩ lắm, thường về luôn. Người ta nói do rừng động” - ông Tửu rủ rỉ.
Cũng chính tại làng Dùi Chiêng, đã bao đời nay có một cái miếu thờ mà người dân địa phương quen gọi là dinh Ông Trùm. Về sự tích dinh, có câu chuyện khá lý thú và hấp dẫn, được lưu truyền trong dân gian qua nhiều đời rằng hồi làng mới lập, có một ông Trùm Hò, không biết rõ họ và từ đâu đến. Ông Trùm Hò có dáng người cao lớn, vạm vỡ, giỏi võ nghệ. Thế cho nên, dân làng sợ cọp nhưng ông thì không. Ngày ngày, ông vác cái rựa, cái rìu một mình lên núi chặt cây gỗ về bán kiếm sống. Hôm đó, ông đang trên đường vác cây về thì gặp cọp. Ông bèn bỏ rìu, tay cầm rựa thủ thế. Cọp gầm lên một tiếng long trời lở đất trước khi nhảy vồ "con mồi". Ông nhanh nhẹn lách qua, tránh được. Ngay sau đó, cả cọp và người quần nhau suốt một ngày ròng rã. Ông Trùn Hò vừa nhảy vừa lợi dụng thế để chém cọp. Mãi đến chiều tối, cả hai kiệt sức rồi cùng chết...
Sự kiện ông Trùm Hò đánh nhau với cọp dân làng không ai biết. Bấy giờ, khu vực sau này trở thành Dinh Ông Trùm là cửa rừng, cây cối rậm rạp, heo hút, vắng bóng người qua lại. Mãi đến sáng hôm sau, khi đi lên núi, bà con mới phát hiện. Lúc đó, xác cọp và người đều đã đông cứng. Dân làng bèn lập miếu thờ. Đặc biệt, trên bàn thờ có để hai cái đầu: một đầu người (ông Trùm Hò) và một đầu cọp. Hằng năm, cứ đúng vào ngày lễ "khai truông", cũng là lễ "khai hạ", dân làng tổ chức cúng thần núi. Người ta mổ heo, để y nguyên cả đầu cẳng, lòng… đầy đủ, cúng cùng với những lễ vật khác như chè, xôi, hương đèn. Sau khi cúng, họ cắt đầu heo ra, giao nhiệm vụ cho anh giáp làng bưng vào Dinh Ông. Cứ để đấy đúng ba ngày ba đêm. Nếu sau đó cọp không xuống núi để ăn thì anh giáp được “hưởng” đầu heo này. "Tui nghe kể có năm cọp xuống ăn nhưng cũng có năm không xuống" - ông Nguyễn Tửu cho biết. Năm 1964, khi trận lụt khủng khiếp năm Thìn xảy ra, hai đầu cọp và người thờ ở miếu đã bị nước lũ cuốn trôi; dinh cũng bị hư hại nhiều. Hiện nay, dinh chỉ còn ba bức tường nham nhở, phần mái đã tốc, được che chắn tạm bợ.
"Bắt” cọp bằng mưu trí
Có thể nói, chuyện ông Trùm Hò đấu nhau với cọp là chuyện hi hữu. Làng Dùi Chiêng duy nhất chỉ có ông dám làm chuyện "động trời" này. Còn những gia đình khác đối phó với cọp bằng cách đánh thanh la, gõ mõ, gõ nồi và bất cứ vật dụng nào phát ra âm thanh để xua đuổi chúng. Tuy nhiên, đã mang danh là “làng… bắt cọp” thì gõ chỉ là cách đối phó bị động, còn phải có người giỏi bắt cọp. Nhưng bắt bằng mưu trí, chứ không ai dám đánh nhau với cọp như ông Trùm Hò. Người giỏi "bắt" cọp và bắt cọp có tiếng đầu tiên là ông Phạm Bá Doãn. Để bắt cọp, ông làm một thứ bẫy mà người địa phương quen gọi là "chùa". Dấu tích còn lại của những cái "chùa" bắt cọp này là một địa danh người ta gọi là kiệt Chùa, tức kiệt có "chùa" bắt cọp. "Chùa" không to, chiều ngang gần 1 mét, dài khoảng 5 mét, hoàn toàn bằng cây săn chắc, được chôn sâu xuống đất, phía trên cũng được cột kỹ, chèn đá to, làm sao để một khi cọp đã vào bẫy không thể vùng ra nổi. Trong chùa nhốt một con chó, ngăn lại. Cọp đi, nghe tiếng chó sủa, mò đến. Khi nó vừa vào thì bẫy sụp xuống. Người ta chỉ việc dùng giáo nhọn mà đâm cho đến lúc cọp chết mới thôi.
Trên thực tế, “chùa" bắt cọp biến mất hồi cuối thập kỷ 1920, đầu thập kỷ 1930. Đó cũng là lúc ông Bá Doãn tiếp tục nghiên cứu làm cái kẹp gài cọp. Kẹp bằng sắt, nặng đến bốn, năm mươi ký, thường phải hai người khiêng. Bấy giờ, theo thói quen, dân làng Dùi Chiêng thường chăn thả trâu. Lúc đói mồi, cọp hay bắt trâu tha vào rừng ăn bộ lòng. Còn lại, nó giấu một nơi, chờ lúc đói lại đến ăn tiếp. Nắm rõ thói quen này, mỗi khi bị cọp bắt trâu bò, dân làng liền theo dõi xem cọp giấu xác trâu ở đâu. Sau đó, họ đến nhờ ông Bá Doãn gài kẹp giùm. Để chắc chắn, ông Bá Doãn cho gài hai, ba cái kẹp. Gài xong, họ cột chặt kẹp vào gốc cây to để cọp khi đã bị mắc kẹp thì không thể lôi đi.
Có thể nói, sau ông Bá Doãn, ông Hội Hồng - con ông Bá Doãn - cũng là người nổi tiếng cả vùng tây Quảng Nam về khả năng dùng kẹp gài cọp. Không chỉ gài ở Dùi Chiêng mà ở đâu có cọp, có người đến mời, ông đều nhiệt tình giúp đỡ. Cho nên, mới có chuyện khiến nhân chứng như ông Nguyễn Tửu nhớ nhất. Ấy là lần cọp bị mắc kẹp ở Sé, giờ thuộc làng Phước Hội, xã Quế Lâm. Nguyên hồi đó, có con cọp ra bắt trâu. Gia chủ theo dõi, rồi cho người lên báo với ông Hội Hồng. Khi cọp dính kẹp, bà con rủ nhau đi xem rất đông. Bất thình lình, cọp gầm lên, nhảy vồ trúng một ông nọ làm chết ngay tại chỗ. Dân làng hốt hoảng nhưng mạnh ai nấy la, không ai dám vào. Được tin, ông Hội Hồng xách súng lên ngay. Ông bảo án mạng đã xảy ra, phải báo quan trước đã. Sau đó, ông yêu cầu làng lập biên bản, cam đoan rằng ông bắn cọp khi cọp đã vồ chết người, vì sợ lỡ bắn có viên đạn nào trúng nạn nhân thì sẽ bị quy tội giết người. Khi biên bản làm xong, mọi người ký tên vào làm chứng, ông mới bắn...
Sinh thời, cả ông Phạm Bá Doãn và ông Hội Hồng đều là những người nổi tiếng "sát cọp". Cũng vì vậy mà danh xưng làng bắt cọp, tức làng Dùi Chiêng, chẳng qua chỉ để nói đến hai cha con họ. Đặc biệt, khi bắt được con cọp nào, họ thường lấy "công" là bộ xương cọp. Tương truyền, gia đình ông Bá Doãn giàu nức tiếng ban đầu nhờ nấu cao hổ cốt. Ông có nhiều sáng kiến bắt cọp, từ sử dụng "chùa" đến kẹp gài. Khi ông mất đi, ông Hội Hồng lên thay thế. Nhờ nấu cao hổ cốt, ông nhanh chóng giàu lên, mua ruộng đất, phát canh thu tô. Bấy giờ, vay ang lúa, chỉ qua một mùa, trả thành ang rưỡi. Nghĩa là lời đến… 50% chỉ qua mấy tháng. Thế nên, người giàu càng giàu thêm. Còn dân nghèo, lỡ vay, nhiều khi trả hoài vẫn còn nợ. Sẵn tiền sẵn bạc, ông Bá Doãn bỏ tiền ra xây đến ba ngôi nhà lầu. Tuy giàu, nhưng ông Bá Doãn và sau này là ông Hội Hồng, may thay, lại được dân làng cho rằng có lòng hào hiệp chứ không keo kiệt như những người khác!
PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT