王 昌 齡 – Vương Xương Linh
西 宮 秋 怨 - Tây Cung Thu Oán
芙 蓉 不 及 美 人 粧,
水 殿 風 來 珠 翠 香。
卻 恨 含 情 掩 秋 扇,
空 懸 明 月 待 君 王。
Phù dung bất cập mỹ nhân trang,
Thủy điện phong lai châu thúy hương.
Khước hận hàm tình yểm thu phiến,
Không huyền minh nguyệt đãi quân vương.
Dịch nghĩa :
Nỗi buồn oán của người đẹp chốn Tây cung.
Phù dung chẳng bằng trang điểm mỹ nhân,
Gió vào Thủy điện có mùi hương châu thúy.
Gạt bỏ nỗi hờn giận, vẻ mặt tình tứ , cánh thu mơn man khép hờ, (đôi mắt người đẹp)
Từng không treo sáng ánh trăng đợi chờ quân vương. (đối tượng nằm chờ <-- nhưng bao giờ mới đến lượt)
Dịch thơ:
Nỗi hờn Tây cung.
Phù dung chẳng đượm sắc tân trang,
Thủy điện gió lùa thoảng ngọc hương.
Gạt hận vẻ tình đôi cánh khép,
Dưới bầu trăng sáng đợi quân vương.
-------------
Phù dung chẳng đặng phấn hồng,
Vàng châu điện Thủy hương xông dạt dào.
Lả lơi khép cánh thu đào,
Màn se bóng nguyệt chốn nào quân vương.
-----------------------------
*Thủy điện : Thủy điện Long chu. Xưa Tùy Dượng Đế muốn đi tuần du (chẳng nhớ rõ là đi đâu
) cùng các mỹ nhân trong cung nhưng lại sợ đi bằng ngựa kiệu. Có người hiến kế đào 1 con sông mấy trăm dặm thẳng từ Tùy cung đến đó. Rồi cho sai đóng cả trăm chiếc thuyền để chở cả mỹ nữ tam cung đi theo. Thuyền vua ngự gọi là Long Chu, thuyền các mỹ nhân goi là Thủy Điện. Trên mỗi thuyền lại có gắn vô sô các loại ngọc dạ minh châu quý để chiếu sáng buổi tối cho ngài và các mỹ nhân chơi bời vui vẻ. Lại sai tìm 3k thiếu nữ trẻ đẹp cho mặc lụa là gấm vóc hảo hạng, dùng dải lụa buộc vào thuyền rồi cứ theo 2 bên bờ mà kéo, tăng phần đẹp mắt. Trời nắng, các thiếu nữ chịu ko nổi, Dượng Đế lại sai cho trồng 2 bên bờ sông 2 hàng dương liễu để che mát cho các phu kéo thuyền. (Cha này ăn chơi hoang tàn quá thể. Nhưng mình nghe mà muốn chết thèm. Hức...)
* Thu phiến : Cánh thu. Ý nói đôi mắt người đẹp. Như "Thu ba" = sóng mắt người đẹp.
Yểm thu phiến : Khép hờ đôi mắt. (Không có quạt mát gì mà che đậy ở đây cả)