17-03-2011, 04:56 PM
Trang: 1 2
17-03-2011, 09:35 PM
hix, hvn huynh để dài quá đọc k hết >"<
sao huynh không chia làm nhiều post cho dễ đọc ạ
sao huynh không chia làm nhiều post cho dễ đọc ạ
17-03-2011, 09:58 PM
(17-03-2011, 09:35 PM)aydada Đã viết: [ -> ]hix, hvn huynh để dài quá đọc k hết >"<
sao huynh không chia làm nhiều post cho dễ đọc ạ
Mấy cái này phải đọc liền 1 phát mới sướng chứ, tách ra những kẻ đê tiện lại bảo mình câu post

01-10-2011, 01:36 PM
Đây!
Lại Hối của cụ Lãng Nhân
Lại Hối
Hòa vừa gõ cửa thì Sinh đã ra mở, niềm nở mời vào phòng khách, giới thiệu với các bạn:
- Đây bác Hòa là một nhà thâm nho. Và đây, bác Đoàn ưa khảo sát về từ ngữ, bác Đằng thích khám phá về sắc dục, bác Dương thạo về phân tâm học, chúng tôi mời bác Hòa đến là chân thứ năm trong hội "Lại Hối".
- Làm chân thứ Năm thì tôi e khập khiễng, vì tôi…già rồi. Hơn nữa hội có năm chân, có lẽ cũng hơi vắng vẻ Châu Trần. Vả lại, tôi chưa hiểu cái tên hội mang nghĩa gì. Lại Hối, việc gì phải hối? Tội cam vạ đáng gì? Đã hối rồi là đủ, sao đến nỗi phải "Lại Hối"? Mà hội với hè đã xin phép chưa? Vớ vẩn không khéo lại tù cả nút…
- Bác yên trí, Sinh đáp. Hội này không phải xin phép, cũng không phải hội kín, chính quyền có dòm ngó tới thì cũng đến cười xòa, có lẽ lại còn khen mình là có công bảo vệ thuần phong mỹ tục nữa là khác. Còn bác bảo số hội viên thưa thớt, xin bác biết cho rằng nhiều chính đảng chỉ có một hội viên vừa làm lãnh tụ vừa làm ủy ban tổ chức, ủy ban vận động, mà cũng kiến nghị kiến nghiếc ầm ầm, có sao đâu! Nhưng tôi xin vào đề ngay để bác khỏi áy náy. Bác là người thông kim bác cổ, hẳn cũng nhận với chúng tôi rằng tiếng ta vẫn mang tiếng là nghèo, chúng ta có nhiệm vụ làm cho phong phú thêm lên. Chúng tôi nghĩ ta sẵn có phương pháp nói lái, một phương pháp đầy màu sắc dân tộc mà ít khi được bà con áp dụng, thì nay đem khuếch trương nó ra, cũng là một cách làm giàu cho ngôn ngữ, vì câu nói lái đột nhiên hàm một ý nghĩa khác hẳn nguyên văn. Như Lại Hối mà chúng ta đang thành lập đây, không phải là ăn năn sám hối nữa, vì lái lại nó sẽ thành Hội Lái, tức là hội những người nói lái.
Dương nói:
- Theo chủ trương của Freud, lời nói của ta phải qua ba phòng: từ phòng ý thức, qua phòng tiềm thức, tới phòng kiểm duyệt, rồi mới phát thanh ra. Nói lái tức là nói ra những tiếng có liên quan đến sắc dục chẳng hạn, mà ý thức và tiềm thức thấy là khó diễn tả được toạc móng heo, thì phòng kiểm duyệt sẽ soát lại và thay đổi cho khỏi "công xúc tu sĩ" trước khi cho nói ra. Ấy là cái nghĩa bảo vệ mỹ tục mà bác Sinh vừa nêu lên đấy.
Hòa cười hà hà:
- Tưởng kín hay hở thì ký nhi viễn chinh, chứ hội lái tôi sợ gì mà dam khống. Và tôi lại đề nghị với các bác bầu Hồ Xuân Hương làm chủ tịch danh dự, với hai phó chủ tịch danh dự là trạng Quỳnh và Yên Đổ. Là vì ai cũng đã biết cái tài nói lái của ba vị ấy. Xuân Hương đã diễu:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Bè từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Trạng Quỳnh cám ơn cô hàng nước đã cho bánh dầy:
Đang khi nắng cực đói lòng thay
Giả ơn chị tú lại cho dầy
Bây giờ biết lấy chi mà tạ
Xin quỳ hai gối chống hai tay
Còn Yên Đổ mừng một ông thợ kèn hai chữ "Đại hạ" lấy cái nghĩa đen là hè to, lái lại thành tò he, rõ ra tiếng kèn. Và khi Ông Ích Khiêm làm đền ở Hà Nội để kỷ công những binh sĩ trong Trung ra bị chết trận ngoài Bắc, sai người đến xin mấy chữ để đề ngoài cổng đền, người này có vẻ tự đắc kể lể "quan tiễu muốn làm đền cho lính tôi", Yên Đỗ đòi ba nén bạc và cho ba chữ "Tối linh từ". Ông Ích Khiêm bất bình vì tiền nhuận bút đắt thế mà ba chữ lại quá ư tầm thường, có biết đâu cụ tam nguyên đã dùng lối nói lái: tối linh là lính tôi, cho bõ ghét cái anh tay sai hách xằng.
Sinh tiếp:
- Vâng, bầu các vị ấy vào ghế danh dự là xứng đáng lắm. Nay xin bàn đến một vài quy luật mà chúng ta sẽ ấn định cho Lại Hối. Tôi thấy trong các câu đố của ta, có lối đố tục giảng thanh như:
Xưa kia em trắng như ngà
Bởi chưng ngủ lắm nên là em thâm
Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi rửa sạch, chàng nằm lên trên.
Giảng là cái chiếu! Lại có lối đố thanh giảng tục, như: "Đầu làng đánh trống, cuối làng phất cờ, trống đánh đến đâu, cờ phất đến đấy" giảng là con chó vừa vẫy đuôi vừa sủa. Vậy tôi tưởng ta cũng nên phân biệt hai lối trong khoa nói lái: ý tục lái thanh, ý thanh lái tục.
- Nên lắm chứ. Đoàn góp ý. Ta có thể xếp vào loại ý tục lái thanh những câu chẳng hạn như: đái dầm lái ra dấm đài, răng mái hiên ra răng hiền mai (nếu ta thuộc vào hạng này, ta cũng nên để ý tới người nào đối thoại với mình mỗi lần lại kính cẩn thưa ông rằng vì biết đâu trong đó chẳng ẩn cái ý răng ông thừa). Bà kia tấm lưng sàm sạp như cánh phản có khi ngơ ngác không hiểu sao có người lại gọi mình là phán Cảnh. Hai ông thanh niên nói nhỏ với nhau: cô điếm nọ hay đi đường Ca-ti-na (đường Đồng Khởi bây giờ) bắt cọp, ta chớ tưởng là cô có thừa can đảm, vì nếu đọc chữ bắt là bắc cho hợp thủy thổ, thì mục tiêu của cô gái có đặt đâu vào chúa sơn lâm! Mấy cô bán hàng rong tụ ở một vỉa hè cấm đỗ, hễ trông thấy bóng cảnh sát là rủ nhau vác chày mà lộn, cảnh sát nếu nghe biết được, có lẽ sẽ hiểu lầm đó là một chưởng siêu việt của môn phái võ lâm nào, chứ không ngờ là một lối khinh công rất thường mà những cô cẳng dài luyện không thấy mệt.
Hòa thêm:
- Về lối ý tục giảng thanh, tôi nhớ một câu đối thật tài tình: "Tuổi gần sáu chục chưa đeo kính; Thức suốt năm canh chỉ sợ gà" lời nghe tự nhiên và có lý, sợ gà vì nó gáy sáng thì tan cuộc, nhưng lái lại, ta sẽ nhớ ngay đến câu ngày trông quan lớn như thần, đến đêm quan lớn tần mần như ma! Lại có người ra vế đối nam đáo nữ phòng: thạch bất truy, không ai hiểu thạch bất truy thủ nghĩa gì, sau tác giả mới nói: thạch bất truy là đá chẳng theo! Ấy là đổi tục ra thanh, chưa thấy đủ thanh, lại dịch nghĩa đen ra chữ Hán nữa cho bí hiểm. Tức như cái kiểu Đại hạ của Yên Đổ trên kia và những chữ mộc tồn: cây còn con cầy; - quần thần: bầy tôi: bồi tây; Đại điểm: chấm to: chó Tâm… mà chúng ta vẫn lấy làm khoái trá mỗi khi nghe kể lại.
Dương cười:
- Theo tôi, ý tục lái thanh không thông dụng bằng ý thanh lái tục. Tôi xin kể mấy thí dụ: cụ trong dân là một tiếng tôn xưng trang trọng, nhưng lái lại, e mất vệ sinh. Đại sứ là chức vị lớn, ai nỡ lái cho thành một tác động có thể bị phạt vi cảnh nếu diễn ra ngoài đường. Chính phủ mà lái thành ra chú phỉnh thì mang lỗi vu cáo cho những chính quyền không mị dân. Bảo bà Cố mắc tội vu khống thì lại phủ nhận tác dụng của nhựa cây hê-vê-a loại "mút" mà giới phụ nữ đua nhau sử dụng. Báo hay nói đến ông Ráp Thập là bậc anh tài thành thạo về máy nước cột đèn, nếu lái lại ông Thấp Rạp thạo về đén nước cột mày, ông sẽ hét lên tùm lum, dù mấy chữ chẳng có nghĩa gì cả. Ông Xuân Quảng ai nỡ lái là Quang xuẩn, mà bảo ông ấy đòi nồi thịt dim là dìm nồi thịt đoi thì cũng tội nghiệp. Câu tường thuật trong báo bà dân biểu tấn công, cụ chủ rung chuông, nghe thật hiền lành vô tội, ta cũng chẳng nên gán cho nó cái nghĩa rất oan uổng cho cả hai "nạn nhân": bà riêu bẩn cống tân, chuộng chủ rung cu!
Đoàn tiếp:
- Ý thanh lái tục kể cũng ác thật. Đến Ba Tàu còn sợ nữa là! Chắc các bác chưa quên trào cụ Ngô có lệnh cấm gọi tổng thống bằng cụ. Ấy là vào ngày 5-5-1960, ông Đoàn Thêm có ghi sự kiện này đấy, và tôi dám chắc chính ông ấy cũng không biết lý do cái lệnh đột ngột đó. Có gì đâu: sáng hôm ấy, mấy ông ba tàu cở bự lên đồ lớn vào yết kiến ông Diệm, để trình bày một ý kiến mà các ông loanh quanh năm lần bảy lượt xin ông Diệm đại xá cho mới dám tỏ bày. Ông Diệm nghe nói lằng nhằng mãi đâm bực mình, vì đã cho phép nói mà vẫn không ai nói rõ là ý kiến gì. Sau phải hứa sẽ không bắt tội ai cả, bấy giờ một ông gốc Quảng Đông mới mạnh dạn: "Thưa tổng thống, chúng tôi chỉ thắc mắc về một tiếng cụ. Chúng tôi vẫn biết cụ là một tiếng xưng hô với bậc tôn trưởng, nhưng mỗi khi được đặc ân lên yết kiến tổng thống, chúng tôi xin ngài cho phép không dùng tới tiếng ấy. mà không phạm tội vô lễ, vì xin tổng thống tha chết cho, hai chữ cụ Ngô e có kẻ xuyên tạc ra là ngộ cu". Ông Diệm hầm hầm đứng lên chẳng nói chẳng rằng, bỏ khách lừng lững đi sang phòng khác, như lối Tôn Quyền tác-sắc với Khổng Minh rũ áo quay vào hậu đường. Thế là ngay chiều hôm ấy có lệnh: cấm dùng chữ cụ để tôn xưng họ Ngô.
- Bác này chỉ khéo giải thích khôi hài. Sinh nói. Nhưng bác nói có sách, ai dám không tin. Tôi thấy rằng những thí dụ các bác đưa ra đề cập đến cả hai lối nói lái: lối Nam chỉ lộn lại hai chữ đầu và cuối, rồi đổi tử âm đầu chữ nọ với tử âm đầu chữ kia. Như đường Công Lý, lái ra Ký lông. Lối Bắc thì Công Lý sẽ thành ra Ly cống, tức là cũng lộn lại hai chữ, nhưng chỉ đổi vị trí của hai đầu thôi. Nay chúng ta dự thảo một hiến pháp cho Lại Hối, tôi xin đề nghị mấy khoản này:
Điều 1: Áp dụng cả hai phương pháp Nam và Bắc tùy theo trường hợp, cốt dùng phương pháp nào đi đến những câu có nghĩa lý đôi chút.
Điều 2: Hạn chế nói lái vào phạm vi ý tục lái thanh.
Dương nhận xét:
- Điều 1 tỏ ra chúng ta không chia rẽ Nam Bắc: điều 2 hợp với chủ trương của Phrới-mun dinh, mà có người còn gọi là Dích-mun-phrơi (Siegmund Freud) để quyền phòng kiểm duyệt bảo vệ cho si tủ khỏi bị xung cốc.
- Minh hô hết hoàn! Lái thanh lại còn tránh cho ta nhiều khẩu nghiệp có hại cho hòa bình của xã hội và khiến ngôn ngữ châm biếm đến đâu cũng vẫn giữ được vẽ tao nhã văn hoa. Điều đáng ghi nhất là hội sẽ làm giàu cho tiếng nước nhà, và do đó hội sẽ góp chút ít công phu vào nền văn hóa dân tộc.
Mấy người đều vui vẻ đồng ý chấn cả hai ki. Sau đó hội bế mạc bằng những câu chào man rợ:
- Biên chào tạm xịt
- Nặm lái muôn hôi!
Lại Hối của cụ Lãng Nhân
Lại Hối
Hòa vừa gõ cửa thì Sinh đã ra mở, niềm nở mời vào phòng khách, giới thiệu với các bạn:
- Đây bác Hòa là một nhà thâm nho. Và đây, bác Đoàn ưa khảo sát về từ ngữ, bác Đằng thích khám phá về sắc dục, bác Dương thạo về phân tâm học, chúng tôi mời bác Hòa đến là chân thứ năm trong hội "Lại Hối".
- Làm chân thứ Năm thì tôi e khập khiễng, vì tôi…già rồi. Hơn nữa hội có năm chân, có lẽ cũng hơi vắng vẻ Châu Trần. Vả lại, tôi chưa hiểu cái tên hội mang nghĩa gì. Lại Hối, việc gì phải hối? Tội cam vạ đáng gì? Đã hối rồi là đủ, sao đến nỗi phải "Lại Hối"? Mà hội với hè đã xin phép chưa? Vớ vẩn không khéo lại tù cả nút…
- Bác yên trí, Sinh đáp. Hội này không phải xin phép, cũng không phải hội kín, chính quyền có dòm ngó tới thì cũng đến cười xòa, có lẽ lại còn khen mình là có công bảo vệ thuần phong mỹ tục nữa là khác. Còn bác bảo số hội viên thưa thớt, xin bác biết cho rằng nhiều chính đảng chỉ có một hội viên vừa làm lãnh tụ vừa làm ủy ban tổ chức, ủy ban vận động, mà cũng kiến nghị kiến nghiếc ầm ầm, có sao đâu! Nhưng tôi xin vào đề ngay để bác khỏi áy náy. Bác là người thông kim bác cổ, hẳn cũng nhận với chúng tôi rằng tiếng ta vẫn mang tiếng là nghèo, chúng ta có nhiệm vụ làm cho phong phú thêm lên. Chúng tôi nghĩ ta sẵn có phương pháp nói lái, một phương pháp đầy màu sắc dân tộc mà ít khi được bà con áp dụng, thì nay đem khuếch trương nó ra, cũng là một cách làm giàu cho ngôn ngữ, vì câu nói lái đột nhiên hàm một ý nghĩa khác hẳn nguyên văn. Như Lại Hối mà chúng ta đang thành lập đây, không phải là ăn năn sám hối nữa, vì lái lại nó sẽ thành Hội Lái, tức là hội những người nói lái.
Dương nói:
- Theo chủ trương của Freud, lời nói của ta phải qua ba phòng: từ phòng ý thức, qua phòng tiềm thức, tới phòng kiểm duyệt, rồi mới phát thanh ra. Nói lái tức là nói ra những tiếng có liên quan đến sắc dục chẳng hạn, mà ý thức và tiềm thức thấy là khó diễn tả được toạc móng heo, thì phòng kiểm duyệt sẽ soát lại và thay đổi cho khỏi "công xúc tu sĩ" trước khi cho nói ra. Ấy là cái nghĩa bảo vệ mỹ tục mà bác Sinh vừa nêu lên đấy.
Hòa cười hà hà:
- Tưởng kín hay hở thì ký nhi viễn chinh, chứ hội lái tôi sợ gì mà dam khống. Và tôi lại đề nghị với các bác bầu Hồ Xuân Hương làm chủ tịch danh dự, với hai phó chủ tịch danh dự là trạng Quỳnh và Yên Đổ. Là vì ai cũng đã biết cái tài nói lái của ba vị ấy. Xuân Hương đã diễu:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Bè từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Trạng Quỳnh cám ơn cô hàng nước đã cho bánh dầy:
Đang khi nắng cực đói lòng thay
Giả ơn chị tú lại cho dầy
Bây giờ biết lấy chi mà tạ
Xin quỳ hai gối chống hai tay
Còn Yên Đổ mừng một ông thợ kèn hai chữ "Đại hạ" lấy cái nghĩa đen là hè to, lái lại thành tò he, rõ ra tiếng kèn. Và khi Ông Ích Khiêm làm đền ở Hà Nội để kỷ công những binh sĩ trong Trung ra bị chết trận ngoài Bắc, sai người đến xin mấy chữ để đề ngoài cổng đền, người này có vẻ tự đắc kể lể "quan tiễu muốn làm đền cho lính tôi", Yên Đỗ đòi ba nén bạc và cho ba chữ "Tối linh từ". Ông Ích Khiêm bất bình vì tiền nhuận bút đắt thế mà ba chữ lại quá ư tầm thường, có biết đâu cụ tam nguyên đã dùng lối nói lái: tối linh là lính tôi, cho bõ ghét cái anh tay sai hách xằng.
Sinh tiếp:
- Vâng, bầu các vị ấy vào ghế danh dự là xứng đáng lắm. Nay xin bàn đến một vài quy luật mà chúng ta sẽ ấn định cho Lại Hối. Tôi thấy trong các câu đố của ta, có lối đố tục giảng thanh như:
Xưa kia em trắng như ngà
Bởi chưng ngủ lắm nên là em thâm
Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi rửa sạch, chàng nằm lên trên.
Giảng là cái chiếu! Lại có lối đố thanh giảng tục, như: "Đầu làng đánh trống, cuối làng phất cờ, trống đánh đến đâu, cờ phất đến đấy" giảng là con chó vừa vẫy đuôi vừa sủa. Vậy tôi tưởng ta cũng nên phân biệt hai lối trong khoa nói lái: ý tục lái thanh, ý thanh lái tục.
- Nên lắm chứ. Đoàn góp ý. Ta có thể xếp vào loại ý tục lái thanh những câu chẳng hạn như: đái dầm lái ra dấm đài, răng mái hiên ra răng hiền mai (nếu ta thuộc vào hạng này, ta cũng nên để ý tới người nào đối thoại với mình mỗi lần lại kính cẩn thưa ông rằng vì biết đâu trong đó chẳng ẩn cái ý răng ông thừa). Bà kia tấm lưng sàm sạp như cánh phản có khi ngơ ngác không hiểu sao có người lại gọi mình là phán Cảnh. Hai ông thanh niên nói nhỏ với nhau: cô điếm nọ hay đi đường Ca-ti-na (đường Đồng Khởi bây giờ) bắt cọp, ta chớ tưởng là cô có thừa can đảm, vì nếu đọc chữ bắt là bắc cho hợp thủy thổ, thì mục tiêu của cô gái có đặt đâu vào chúa sơn lâm! Mấy cô bán hàng rong tụ ở một vỉa hè cấm đỗ, hễ trông thấy bóng cảnh sát là rủ nhau vác chày mà lộn, cảnh sát nếu nghe biết được, có lẽ sẽ hiểu lầm đó là một chưởng siêu việt của môn phái võ lâm nào, chứ không ngờ là một lối khinh công rất thường mà những cô cẳng dài luyện không thấy mệt.
Hòa thêm:
- Về lối ý tục giảng thanh, tôi nhớ một câu đối thật tài tình: "Tuổi gần sáu chục chưa đeo kính; Thức suốt năm canh chỉ sợ gà" lời nghe tự nhiên và có lý, sợ gà vì nó gáy sáng thì tan cuộc, nhưng lái lại, ta sẽ nhớ ngay đến câu ngày trông quan lớn như thần, đến đêm quan lớn tần mần như ma! Lại có người ra vế đối nam đáo nữ phòng: thạch bất truy, không ai hiểu thạch bất truy thủ nghĩa gì, sau tác giả mới nói: thạch bất truy là đá chẳng theo! Ấy là đổi tục ra thanh, chưa thấy đủ thanh, lại dịch nghĩa đen ra chữ Hán nữa cho bí hiểm. Tức như cái kiểu Đại hạ của Yên Đổ trên kia và những chữ mộc tồn: cây còn con cầy; - quần thần: bầy tôi: bồi tây; Đại điểm: chấm to: chó Tâm… mà chúng ta vẫn lấy làm khoái trá mỗi khi nghe kể lại.
Dương cười:
- Theo tôi, ý tục lái thanh không thông dụng bằng ý thanh lái tục. Tôi xin kể mấy thí dụ: cụ trong dân là một tiếng tôn xưng trang trọng, nhưng lái lại, e mất vệ sinh. Đại sứ là chức vị lớn, ai nỡ lái cho thành một tác động có thể bị phạt vi cảnh nếu diễn ra ngoài đường. Chính phủ mà lái thành ra chú phỉnh thì mang lỗi vu cáo cho những chính quyền không mị dân. Bảo bà Cố mắc tội vu khống thì lại phủ nhận tác dụng của nhựa cây hê-vê-a loại "mút" mà giới phụ nữ đua nhau sử dụng. Báo hay nói đến ông Ráp Thập là bậc anh tài thành thạo về máy nước cột đèn, nếu lái lại ông Thấp Rạp thạo về đén nước cột mày, ông sẽ hét lên tùm lum, dù mấy chữ chẳng có nghĩa gì cả. Ông Xuân Quảng ai nỡ lái là Quang xuẩn, mà bảo ông ấy đòi nồi thịt dim là dìm nồi thịt đoi thì cũng tội nghiệp. Câu tường thuật trong báo bà dân biểu tấn công, cụ chủ rung chuông, nghe thật hiền lành vô tội, ta cũng chẳng nên gán cho nó cái nghĩa rất oan uổng cho cả hai "nạn nhân": bà riêu bẩn cống tân, chuộng chủ rung cu!
Đoàn tiếp:
- Ý thanh lái tục kể cũng ác thật. Đến Ba Tàu còn sợ nữa là! Chắc các bác chưa quên trào cụ Ngô có lệnh cấm gọi tổng thống bằng cụ. Ấy là vào ngày 5-5-1960, ông Đoàn Thêm có ghi sự kiện này đấy, và tôi dám chắc chính ông ấy cũng không biết lý do cái lệnh đột ngột đó. Có gì đâu: sáng hôm ấy, mấy ông ba tàu cở bự lên đồ lớn vào yết kiến ông Diệm, để trình bày một ý kiến mà các ông loanh quanh năm lần bảy lượt xin ông Diệm đại xá cho mới dám tỏ bày. Ông Diệm nghe nói lằng nhằng mãi đâm bực mình, vì đã cho phép nói mà vẫn không ai nói rõ là ý kiến gì. Sau phải hứa sẽ không bắt tội ai cả, bấy giờ một ông gốc Quảng Đông mới mạnh dạn: "Thưa tổng thống, chúng tôi chỉ thắc mắc về một tiếng cụ. Chúng tôi vẫn biết cụ là một tiếng xưng hô với bậc tôn trưởng, nhưng mỗi khi được đặc ân lên yết kiến tổng thống, chúng tôi xin ngài cho phép không dùng tới tiếng ấy. mà không phạm tội vô lễ, vì xin tổng thống tha chết cho, hai chữ cụ Ngô e có kẻ xuyên tạc ra là ngộ cu". Ông Diệm hầm hầm đứng lên chẳng nói chẳng rằng, bỏ khách lừng lững đi sang phòng khác, như lối Tôn Quyền tác-sắc với Khổng Minh rũ áo quay vào hậu đường. Thế là ngay chiều hôm ấy có lệnh: cấm dùng chữ cụ để tôn xưng họ Ngô.
- Bác này chỉ khéo giải thích khôi hài. Sinh nói. Nhưng bác nói có sách, ai dám không tin. Tôi thấy rằng những thí dụ các bác đưa ra đề cập đến cả hai lối nói lái: lối Nam chỉ lộn lại hai chữ đầu và cuối, rồi đổi tử âm đầu chữ nọ với tử âm đầu chữ kia. Như đường Công Lý, lái ra Ký lông. Lối Bắc thì Công Lý sẽ thành ra Ly cống, tức là cũng lộn lại hai chữ, nhưng chỉ đổi vị trí của hai đầu thôi. Nay chúng ta dự thảo một hiến pháp cho Lại Hối, tôi xin đề nghị mấy khoản này:
Điều 1: Áp dụng cả hai phương pháp Nam và Bắc tùy theo trường hợp, cốt dùng phương pháp nào đi đến những câu có nghĩa lý đôi chút.
Điều 2: Hạn chế nói lái vào phạm vi ý tục lái thanh.
Dương nhận xét:
- Điều 1 tỏ ra chúng ta không chia rẽ Nam Bắc: điều 2 hợp với chủ trương của Phrới-mun dinh, mà có người còn gọi là Dích-mun-phrơi (Siegmund Freud) để quyền phòng kiểm duyệt bảo vệ cho si tủ khỏi bị xung cốc.
- Minh hô hết hoàn! Lái thanh lại còn tránh cho ta nhiều khẩu nghiệp có hại cho hòa bình của xã hội và khiến ngôn ngữ châm biếm đến đâu cũng vẫn giữ được vẽ tao nhã văn hoa. Điều đáng ghi nhất là hội sẽ làm giàu cho tiếng nước nhà, và do đó hội sẽ góp chút ít công phu vào nền văn hóa dân tộc.
Mấy người đều vui vẻ đồng ý chấn cả hai ki. Sau đó hội bế mạc bằng những câu chào man rợ:
- Biên chào tạm xịt
- Nặm lái muôn hôi!
01-10-2011, 01:41 PM
CHUYỆN CÀ KÊ(Lãng Nhân)
Hơi hướng
Hòa vừa vào tới nhà Sinh đã ngã lưng xuống ghế, hai tay vươn ra, thở dài:
- Mệt quá. Vừa đi dạo một vòng phường phố nhìn trai thanh gái lịch, họ ăn mặc sao mà kệch cỡm thế. Thật là khó ngửi quá!
Sinh đáp:
- Bác dùng chữ khó ngửi, có lẽ cũng không ngờ là đã nói lên một sự thực về sinh lý đấy. Trông kẻ ăn mặc lố lăng, sao lại thành khó ngửi? Ấy thế mà đúng: thị giác có khi gợi ra khứu giác, cũng như khứu giác dẫn đến vị giác. Ngồi vào bàn ăn, có món chả nướng thơm lừng, nếu bác nói: "Chả ngon quá!" là bác lầm rồi, phải nói là chả thơm quá, vì mùi thơm đưa lại vị ngon. Thử mà xem. Hôm nào ngạt mũi thì món chả không còn thích khẩu nữa. Ta ưa ngửi hoa, hít thở hương thơm của đất cỏ dưới mưa xuân, của chân rạ mới cắt ngoài đồng, của lá vàng rụng xuống ngày thu, khứu giác cho ta cái thú vị ấy cũng như cho ta thưởng thức món cao lương. Khứu giác đôi khi còn nhắc nhở lại một ngày nào xa xưa ta ngồi bên người đẹp "cái buổi ban đầu lưu luyến ấy".
- Thế ra khứu giác lại làm sống lại cả hồn thơ nữa ư? Nhưng tại sao có mùi ta ưa, lại cũng có mùi ta ghét? Đành rằng mùi hôi tiết ra ở đống rác, ai cũng phải ghê tởm. Song không phải mùi hôi nào cũng đáng ghét cả, chắc bác cũng nghiệm như thế chứ? Vả lại, vào một nhà bán cá mắm, lâu rồi không thấy mùi tanh nữa; vào một nơi có cỏ chi cỏ lan, lâu rồi cũng không thấy mùi thơm, là vì mình đã hóa theo thơm hay tanh rồi. Cho nên phải chọn bạn mà giao du (Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tắc dữ chi câu hóa hĩ. Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi câu hóa hĩ, thị dĩ quân tử thận sở dữ xử dã – Khổng Tử gia ngữ). Coi vậy, gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, lời dạy của ngàn xưa thật có vẻ khoa học nhỉ!
- Quả vậy, một mùi đặc biệt mà hít thở lâu, khứu giác quen đi, không nhận được chân-xác nữa, cho nên những người bị bắt buộc phải làm việc trong những xưởng máy ngột ngạt hơi dầu cặn, hoặc phải mó tay vào nhiều chất nặng mùi, lâu rồi cũng không thấy khó chịu. Có điều là chúng ta có nhiều tính kỳ quặc. Cái gì người này bảo thơm, có khi người kia lại cho là khó ngửi, và ngay cả những hơi không thanh thoát lắm, nếu trừ được đi, chưa hẳn là đáng mừng, nhiều người còn thấy như nhớ tiếc mà đòi lập nó lại. Bên Mỹ đã chế ra những lưới đánh cá bằng nylon không có mùi mẽ gì, để thay lưới bằng đay mau trở thành tanh tưởi, thì có người đi câu lại đòi lưới phải tỏa mùi tự nhiên của gai, của hắc ín. Nhà kỷ nghệ bèn chế ra một thứ nước bông đượm hương nước biển để tẩm vào lưới cho vừa mũi khách hàng. Những nhà chế tạo đồ nylon giả da cũng thường phải ướp nhiều đồ vật vào một thứ nước thoang thoảng mùi da thuộc. Nhưng dù sao, biến chế khéo đến đâu cũng không gây được cái hương vị độc đáo của thiên nhiên. Về tình yêu của lứa đôi, điều khám phá quan trọng về khứu giác là khi đã không chịu được hơi hướng của một bên thì hương cũng khó gây nên mùi nhớ nữa. Vì khứu giác là một giác quan thầm kín, có liên quan mật thiết đến tình cảm và lại hay bị dồn ép nhất. Da thịt mà có mùi "tục lụy", bạn thân cũng nín thở chẳng dám nói ra. Những hương thừa do sự thiếu vệ sinh thì không đáng kể, đáng kể là khi đã tắm giặt sạch sẽ, mùi da thịt phải hợp mũi của nhau. Nữ sĩ Thụy Điển Michaelis nói: "Đàn ông đối với tôi cũng như hoa, tôi thưởng thức theo mùi thơm của họ". Kể cũng là thính mũi và can đảm đấy chứ!
- Vậy ra bác bảo mỗi người chúng ta đều có một mùi riêng, hấp dẫn đối với người này nhưng lại khó chịu với người khác?
- Tất nhiên. Không những thế, mỗi giới lại có mùi của nó. Nhưng trong mỗi phái, mùi lại đổi thay theo tuổi, theo giống, theo tính khí, và theo lúc hờn giận hay vui cười. Và phản ứng cũng khác nhau ở mỗi người. Người đàn bà có khi thoáng ngửi hơi chồng là biết được thái độ của chồng. Khi nào mát mẻ dễ chịu, thì mọi việc vui vẻ, lúc cáu giận thì thật là khó thương. Dùng nước bông là một cách hiệu nghiệm để tẩy trừ hơi hướng, nhưng các bà có ngờ đâu thứ làm căn bản cho nước bông lại có nhiều chất chẳng thơm tho gì: nào là chất long-diên-hương trích trong những hạch nằm nơi ruột cá voi, ngửi như mùi chốc đầu; xạ là chất lấy ở trong cơ quan sinh dục của giống chồn, đượm mùi hăm nách. Tất cả tài nghệ của nhà làm dầu thơm là đem hương hoa pha lẫn với những mùi thú vật, để gợi lại thú tính là thứ mỗi ngày cần phải trau chuốt tinh vi để kích thích sự khoái cảm của con thú người mỗi ngày một "lờn" đi vì thói quen.
- Nếu thế thì Lệ Quyên, người cung nhân của vua Hán Quang Võ có "hơi thở thơm như lan" có lẽ cũng chỉ hợp với mũi ông vua tàu ấy mà thành tiếng tăm để đến bây giờ. Khác nào mồ hôi thị Bằng khi xưa ý hẳn hợp với mũi Ôn Như Hầu lắm, nên nhà thơ mới "xếp tàn y lại để dành hơi". Đã chắc gì đối với mũi khác, hơi áo này không xông ra mùi mốc, hương lan kia không biến ra mùi huệ rữa bốc từ trong bình lên. Mà hoa trà, Yên Đỗ cho là "đếch có mùi thơm" vị tất đã đúng, vì biết bao người từng chết mê chết mệt vì Trà hoa nương tử.
- Âu là đối với mùi mẽ, không nên phê bình, vì mỗi người một mũi cũng như đối với màu sắc và mùi vị, mỗi người hưởng ứng một khác.
- Ấy cũng như trong địa hạt văn chương, có tác phẩm người này cho là hay, người kia lại bảo là dở. Sự thật thì vẫn như câu của Lỗ Tấn: "văn mình vợ người". Chả là vì "của ai vừa mũi người ấy"!
Hơi hướng
Hòa vừa vào tới nhà Sinh đã ngã lưng xuống ghế, hai tay vươn ra, thở dài:
- Mệt quá. Vừa đi dạo một vòng phường phố nhìn trai thanh gái lịch, họ ăn mặc sao mà kệch cỡm thế. Thật là khó ngửi quá!
Sinh đáp:
- Bác dùng chữ khó ngửi, có lẽ cũng không ngờ là đã nói lên một sự thực về sinh lý đấy. Trông kẻ ăn mặc lố lăng, sao lại thành khó ngửi? Ấy thế mà đúng: thị giác có khi gợi ra khứu giác, cũng như khứu giác dẫn đến vị giác. Ngồi vào bàn ăn, có món chả nướng thơm lừng, nếu bác nói: "Chả ngon quá!" là bác lầm rồi, phải nói là chả thơm quá, vì mùi thơm đưa lại vị ngon. Thử mà xem. Hôm nào ngạt mũi thì món chả không còn thích khẩu nữa. Ta ưa ngửi hoa, hít thở hương thơm của đất cỏ dưới mưa xuân, của chân rạ mới cắt ngoài đồng, của lá vàng rụng xuống ngày thu, khứu giác cho ta cái thú vị ấy cũng như cho ta thưởng thức món cao lương. Khứu giác đôi khi còn nhắc nhở lại một ngày nào xa xưa ta ngồi bên người đẹp "cái buổi ban đầu lưu luyến ấy".
- Thế ra khứu giác lại làm sống lại cả hồn thơ nữa ư? Nhưng tại sao có mùi ta ưa, lại cũng có mùi ta ghét? Đành rằng mùi hôi tiết ra ở đống rác, ai cũng phải ghê tởm. Song không phải mùi hôi nào cũng đáng ghét cả, chắc bác cũng nghiệm như thế chứ? Vả lại, vào một nhà bán cá mắm, lâu rồi không thấy mùi tanh nữa; vào một nơi có cỏ chi cỏ lan, lâu rồi cũng không thấy mùi thơm, là vì mình đã hóa theo thơm hay tanh rồi. Cho nên phải chọn bạn mà giao du (Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tắc dữ chi câu hóa hĩ. Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi câu hóa hĩ, thị dĩ quân tử thận sở dữ xử dã – Khổng Tử gia ngữ). Coi vậy, gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, lời dạy của ngàn xưa thật có vẻ khoa học nhỉ!
- Quả vậy, một mùi đặc biệt mà hít thở lâu, khứu giác quen đi, không nhận được chân-xác nữa, cho nên những người bị bắt buộc phải làm việc trong những xưởng máy ngột ngạt hơi dầu cặn, hoặc phải mó tay vào nhiều chất nặng mùi, lâu rồi cũng không thấy khó chịu. Có điều là chúng ta có nhiều tính kỳ quặc. Cái gì người này bảo thơm, có khi người kia lại cho là khó ngửi, và ngay cả những hơi không thanh thoát lắm, nếu trừ được đi, chưa hẳn là đáng mừng, nhiều người còn thấy như nhớ tiếc mà đòi lập nó lại. Bên Mỹ đã chế ra những lưới đánh cá bằng nylon không có mùi mẽ gì, để thay lưới bằng đay mau trở thành tanh tưởi, thì có người đi câu lại đòi lưới phải tỏa mùi tự nhiên của gai, của hắc ín. Nhà kỷ nghệ bèn chế ra một thứ nước bông đượm hương nước biển để tẩm vào lưới cho vừa mũi khách hàng. Những nhà chế tạo đồ nylon giả da cũng thường phải ướp nhiều đồ vật vào một thứ nước thoang thoảng mùi da thuộc. Nhưng dù sao, biến chế khéo đến đâu cũng không gây được cái hương vị độc đáo của thiên nhiên. Về tình yêu của lứa đôi, điều khám phá quan trọng về khứu giác là khi đã không chịu được hơi hướng của một bên thì hương cũng khó gây nên mùi nhớ nữa. Vì khứu giác là một giác quan thầm kín, có liên quan mật thiết đến tình cảm và lại hay bị dồn ép nhất. Da thịt mà có mùi "tục lụy", bạn thân cũng nín thở chẳng dám nói ra. Những hương thừa do sự thiếu vệ sinh thì không đáng kể, đáng kể là khi đã tắm giặt sạch sẽ, mùi da thịt phải hợp mũi của nhau. Nữ sĩ Thụy Điển Michaelis nói: "Đàn ông đối với tôi cũng như hoa, tôi thưởng thức theo mùi thơm của họ". Kể cũng là thính mũi và can đảm đấy chứ!
- Vậy ra bác bảo mỗi người chúng ta đều có một mùi riêng, hấp dẫn đối với người này nhưng lại khó chịu với người khác?
- Tất nhiên. Không những thế, mỗi giới lại có mùi của nó. Nhưng trong mỗi phái, mùi lại đổi thay theo tuổi, theo giống, theo tính khí, và theo lúc hờn giận hay vui cười. Và phản ứng cũng khác nhau ở mỗi người. Người đàn bà có khi thoáng ngửi hơi chồng là biết được thái độ của chồng. Khi nào mát mẻ dễ chịu, thì mọi việc vui vẻ, lúc cáu giận thì thật là khó thương. Dùng nước bông là một cách hiệu nghiệm để tẩy trừ hơi hướng, nhưng các bà có ngờ đâu thứ làm căn bản cho nước bông lại có nhiều chất chẳng thơm tho gì: nào là chất long-diên-hương trích trong những hạch nằm nơi ruột cá voi, ngửi như mùi chốc đầu; xạ là chất lấy ở trong cơ quan sinh dục của giống chồn, đượm mùi hăm nách. Tất cả tài nghệ của nhà làm dầu thơm là đem hương hoa pha lẫn với những mùi thú vật, để gợi lại thú tính là thứ mỗi ngày cần phải trau chuốt tinh vi để kích thích sự khoái cảm của con thú người mỗi ngày một "lờn" đi vì thói quen.
- Nếu thế thì Lệ Quyên, người cung nhân của vua Hán Quang Võ có "hơi thở thơm như lan" có lẽ cũng chỉ hợp với mũi ông vua tàu ấy mà thành tiếng tăm để đến bây giờ. Khác nào mồ hôi thị Bằng khi xưa ý hẳn hợp với mũi Ôn Như Hầu lắm, nên nhà thơ mới "xếp tàn y lại để dành hơi". Đã chắc gì đối với mũi khác, hơi áo này không xông ra mùi mốc, hương lan kia không biến ra mùi huệ rữa bốc từ trong bình lên. Mà hoa trà, Yên Đỗ cho là "đếch có mùi thơm" vị tất đã đúng, vì biết bao người từng chết mê chết mệt vì Trà hoa nương tử.
- Âu là đối với mùi mẽ, không nên phê bình, vì mỗi người một mũi cũng như đối với màu sắc và mùi vị, mỗi người hưởng ứng một khác.
- Ấy cũng như trong địa hạt văn chương, có tác phẩm người này cho là hay, người kia lại bảo là dở. Sự thật thì vẫn như câu của Lỗ Tấn: "văn mình vợ người". Chả là vì "của ai vừa mũi người ấy"!
01-10-2011, 10:47 PM
Cảm ơn bác. Lâu lâu đọc lại văn cụ Lãng Nhân vẫn thấy hay phết 

04-10-2011, 08:56 AM
NÓI LÁI MÀ CHƠI
Nói lái là một lối nói ghép chữ, đem phụ âm tiếng trước ghép với cả âm tiếng sau hoặc ngược lại mà ta thường gặp, thường dùng trong ngôn ngữ Việt Nam, ví dụ như cá đối # cối đá ( giữ nguyên các dấu) hoặc thay đổi dấu như mèo cụt # mút kèo. Ngôn ngữ Việt Nam vốn đơn âm, nên những tiếng nói lái tương đối dễ cấu tạo và dễ có nghĩa .Tiếng nói lái trở lại chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành một nghĩa khác, nếu nó vô nghĩa ( như con gà # cà gon ) thì không thể gọi là nói lái được.
Đây là một đặc điểm của ngôn ngữ Việt nam mà từ khi có tiếng Việt chúng ta đã có nhiều giai thoại, nhiều tác phẩm văn chương đã đi vào văn học sử, không những ta thấy nhiều kiểu nói lái trong văn chương bình dân ( tục ngữ, ca dao) mà còn cả trong văn chương uyên bác ( thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khoa Vi ). Không phải như lối nói lái (speak pig latin) hay nói lịu ( spoonerism) trong Anh Ngữ , lối nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam đa dạng, dễ dùng , dễ phổ biến và có nhiều ý nghĩa thâm trầm, ý nhị .
Tuy nhiên đặc điểm nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam phần lớn thường có khuynh hướng thiên về dung tục, ghi chép ở trong sách vở hay phát biểu giữa nơi công cộng thường không được tao nhã cho lắm . Nhiều người đã lợi dụng lối nói lái thô tục trên sân khấu, trong các buổi trình diễn để chọc cười khán giả, khiến cho nhiều bậc thức giả phải khó chịu nhăn mặt. Có lẽ vì vậy mà sự phát triển của cách nói lái qua thời gian đã có nhiều đóng góp cho ngôn ngữ nhưng vẫn chưa được sắp xếp xem như một phần của ngôn ngữ và văn học Việt Nam, dù là chỉ một phần nhỏ.
…..
NÓI LÁI TRONG VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN.
Trong nhân gian, khi xử dụng ngôn ngữ trong khi giao tiếp hàng ngày, người ta thường tránh những tiếng có thể gây ngộ nhận, vì khi những tiếng nói ấy được phát ra, người ta nghĩ ngay đến tiếng nói lái kèm theo thô tục và suồng sã. Nhiều người trẻ tuổi vì không hiểu cách nói lái đã bị hiểu lầm khi vô tình xử dụng các tiếng nghe rất thông thường nhưng rất tục khi được nói lái lại như : nắng cực, đồn lầm, công ngủ, trái gì? trái giứng... có rất nhiều trong ngôn ngữ Việt Nam.
Trái lại trong ca dao, câu thơ ví von sau đây, nói lái, đối đáp rất có ý nghĩa và thanh nhã:
- Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được, dẫu nghèo cũng ưng.
- Con mỏ kiến đậu trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang
Anh đà đối đặng, e nàng vong ngôn.
Trai gái miền trung hẹn hò gặp gỡ nhau, sợ có người nghe thì tìm cách nói lái vẩn vơ về ruộng đồng, rơm rạ để hiểu ngầm với nhau. Chàng nói bâng quơ : “bị môn, bị khoai, bị nưa”, nàng khất: “cau khô, trầu héo, tái môi.” hay “nón cụ, quai thao, tốt mối.” Hoặc “bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”... Người qua đường không thể hiểu rằng bị nưa là bựa ni (bữa nay), tái môi là tối mai, tốt mối là tối mốt, tối múi là tối mốt...
Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái như vầy:
Xưa tê câu ró ngó xinh
Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ.
Thì ra câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu cả. Trong văn chương bình dân có lối hò tục nói lái như đoạn hò sau đây:
Anh đi về cẳng thấp cẳng cao,
Em cũng mời anh vô hút thuốc ăn trầu,
Kẻo thế gian lắm lời, nói ở "dồn lâu" mới về.
Đáp:
- Anh cũng muốn vô nhà, ghé hút thuốc ăn trầu,
Nhưng sợ mai tê quan biết được, nói "đặt cầu" em leo.
NÓI LÁI TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG HAY NÓI LÁI TỤC.
Hồ Xuân Hương với những bài thơ tả vật, tả cảnh đã dùng những hình tượng , chữ nghĩa rất táo bạo khiến cho người ta thường nghĩ ngay đến các sinh thực khí hay những quan hệ giữa nam nữ, như một ám ảnh tâm lý, nếu nói theo các nhà phân tâm học.( Vịnh Cái Quạt, Đánh Cờ Người, Quả Mít, Đèo Ba Dọi...) lẽ cố nhiên nhà thơ họ Hồ cũng không quên dùng nhiều chữ theo lối nói lái một cách táo bạo trong thơ bà, mà người đọc ai cũng hiểu:
...Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)
...Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)
Nhân nói chuyện lái trong thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi xin trích dẫn một bài thơ nói lái của một tác giả vô danh nhan đề là Trông Trời (xin đọc theo kiểu bắc kỳ là Chông Chời):
Cô kia sao cứ trông trời
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Sau đây lại thêm một bai thơ tục theo kiểu nói lái:
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
BÀI THƠ NÓI LÁI THỜI KHÁNG CHIẾN.
Trong thời kháng chiến chống Pháp, khoảng những năm 1951- 52, sau Đại hội Đảng Lao Động , chính phủ bắt đầu tinh giảm biên chế và loại các thành phần tiểu tư sản ra khỏi bộ máy công quyền, một bài thơ nói lái do một nhân vật vô danh bất mãn bỏ kháng chiến về thành tung ra rất được phổ biến. Chính vì những tiếng nói lái đặc biệt ( tiếng Hán Việt lái thành tiếng nôm ) mà bài thơ được người ta nhớ lâu và truyền tụng :
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chiến khu thu cất chú khiêng rồi
Thi đua thắng lợi thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.
GIAI THOẠI NÓI LÁI THỜI PHÁP THUỘC.
Một giai thoại thời thủ tướng Nguyễn Văn Tâm được lưu truyền ở miền nam như sau: hồi Thủ Tướng Tâm còn là Quận Trưởng Cai Lậy (có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy) lúc ăn mừng tân gia, có người đem tặng một bức hoành có khắc bốn chữ nho : "Đại Điểm Quần Thần" tạm dịch nghĩ a là "bề tôi chức vụ lớn". Nguyễn Văn Tâm lấy làm hãnh diện đắc ý, nhưng sau đó có người phát giác ra là ông Tâm bị chưởi xéo, vì bốn chữ Đại Điểm Quần Thần, dịch nôm sát nghĩa là Chấm To Bầy Tôi.. nói lái ra thành Chó Tâm Bồi Tây.
Lối nói này cũng phổ biến như người ta nói tới một người đàn bà "bách diệp", nghĩa nôm là "trăm lá", nói lái là "tra lắm" (già lắm).
NÓI LÁI THỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Sau tháng 4 năm 1975, dân tình cực khổ , do đó trong nhân gian có những câu nói lái rất phổ thông:
Quy mã là qua Mỹ , hay :
Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo dày.
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên... sáng ăn khoai.
Nói về tệ nạn cửa quyền tham nhũng và các tệ nạn thì nhân gian có các câu nói lái :
Thủ tục đầu tiên là ..tiền đâu ?
Vũ Như Cẩn là Vẫn như cũ.
Nguyễn Y Vân là Vẫn Y Nguyên
Bùi Lan là Bàn Lui
Hộ khẩu là Hậu khổ.
Chỉ riêng ngành giáo dục không thôi đã có nguyên một bài nói lái tự thán như sau :
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm tốt thôi.
THƠ NÓI LÁI KHÔNG TỤC.
Cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi là một nhà thơ Đất Thần Kinh, ở Vỹ Dạ đã làm một bài thơ nói lái rất công phu và có ý nghĩa như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải (**)
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Ông Tôn Thất Đàm ở Úc đã có một bài nói lái nhan đề “Má Con” như sau:
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.
Trong nhân gian, người ta rất thích thú được nói lái và nghe nói lái, có khi bất chợt tình cờ vô ý mà tiếng nói ra thành một tiếng nói lái, có khi người ta tìm cách đẽo gọt, tìm tòi để kiếm ra những từ nói lái có ý nghĩa. Tác giả có thể là một mà cũng có thể là nhiều người, dần dà ngôn ngữ nói lái thành ra tài sản chung, đóng góp vào trong kho tàng văn chương bình dân của ngôn ngữ Việt Nam. Xin trích dẫn một số tiếng nói lái thông thường mà chúng ta hay bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày:
trễ giờ thì trở (về) dề,- ôm nhiều thành yếu và yêu nhiều thành ốm, - đơn giản như đang giỡn,- chà đồ nhôm là chôm đồ nhà,-cây còn ( mộc tồn ) là con cầy. - cờ tây là cầy tơ.
và nói lái tiếng tây : très chaud (nóng quá) thành trop cher (đắt quá).
Trong giới bình dân có rất nhiều câu nói hoặc chuyện nói lái rất thô tục, rất dễ nói lái với những tiếng có vần ”ôn” như môn, tôn...chủ yếu nhắm vào các bộ phận sinh dục và chuyện quan hệ giữa nam nữ ...mà trong thơ Hồ Xuân Hưong chúng ta cũng đã thấy ít nhiều, như ta thường nghe trong dân gian như “đạo dụ!”, “ điện lu”, “chồn lùi”, “cụ Đệ”, “mụ Đắc”...
(Nguồn: vietlyso.com)
Nói lái là một lối nói ghép chữ, đem phụ âm tiếng trước ghép với cả âm tiếng sau hoặc ngược lại mà ta thường gặp, thường dùng trong ngôn ngữ Việt Nam, ví dụ như cá đối # cối đá ( giữ nguyên các dấu) hoặc thay đổi dấu như mèo cụt # mút kèo. Ngôn ngữ Việt Nam vốn đơn âm, nên những tiếng nói lái tương đối dễ cấu tạo và dễ có nghĩa .Tiếng nói lái trở lại chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành một nghĩa khác, nếu nó vô nghĩa ( như con gà # cà gon ) thì không thể gọi là nói lái được.
Đây là một đặc điểm của ngôn ngữ Việt nam mà từ khi có tiếng Việt chúng ta đã có nhiều giai thoại, nhiều tác phẩm văn chương đã đi vào văn học sử, không những ta thấy nhiều kiểu nói lái trong văn chương bình dân ( tục ngữ, ca dao) mà còn cả trong văn chương uyên bác ( thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khoa Vi ). Không phải như lối nói lái (speak pig latin) hay nói lịu ( spoonerism) trong Anh Ngữ , lối nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam đa dạng, dễ dùng , dễ phổ biến và có nhiều ý nghĩa thâm trầm, ý nhị .
Tuy nhiên đặc điểm nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam phần lớn thường có khuynh hướng thiên về dung tục, ghi chép ở trong sách vở hay phát biểu giữa nơi công cộng thường không được tao nhã cho lắm . Nhiều người đã lợi dụng lối nói lái thô tục trên sân khấu, trong các buổi trình diễn để chọc cười khán giả, khiến cho nhiều bậc thức giả phải khó chịu nhăn mặt. Có lẽ vì vậy mà sự phát triển của cách nói lái qua thời gian đã có nhiều đóng góp cho ngôn ngữ nhưng vẫn chưa được sắp xếp xem như một phần của ngôn ngữ và văn học Việt Nam, dù là chỉ một phần nhỏ.
…..
NÓI LÁI TRONG VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN.
Trong nhân gian, khi xử dụng ngôn ngữ trong khi giao tiếp hàng ngày, người ta thường tránh những tiếng có thể gây ngộ nhận, vì khi những tiếng nói ấy được phát ra, người ta nghĩ ngay đến tiếng nói lái kèm theo thô tục và suồng sã. Nhiều người trẻ tuổi vì không hiểu cách nói lái đã bị hiểu lầm khi vô tình xử dụng các tiếng nghe rất thông thường nhưng rất tục khi được nói lái lại như : nắng cực, đồn lầm, công ngủ, trái gì? trái giứng... có rất nhiều trong ngôn ngữ Việt Nam.
Trái lại trong ca dao, câu thơ ví von sau đây, nói lái, đối đáp rất có ý nghĩa và thanh nhã:
- Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được, dẫu nghèo cũng ưng.
- Con mỏ kiến đậu trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang
Anh đà đối đặng, e nàng vong ngôn.
Trai gái miền trung hẹn hò gặp gỡ nhau, sợ có người nghe thì tìm cách nói lái vẩn vơ về ruộng đồng, rơm rạ để hiểu ngầm với nhau. Chàng nói bâng quơ : “bị môn, bị khoai, bị nưa”, nàng khất: “cau khô, trầu héo, tái môi.” hay “nón cụ, quai thao, tốt mối.” Hoặc “bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”... Người qua đường không thể hiểu rằng bị nưa là bựa ni (bữa nay), tái môi là tối mai, tốt mối là tối mốt, tối múi là tối mốt...
Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái như vầy:
Xưa tê câu ró ngó xinh
Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ.
Thì ra câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu cả. Trong văn chương bình dân có lối hò tục nói lái như đoạn hò sau đây:
Anh đi về cẳng thấp cẳng cao,
Em cũng mời anh vô hút thuốc ăn trầu,
Kẻo thế gian lắm lời, nói ở "dồn lâu" mới về.
Đáp:
- Anh cũng muốn vô nhà, ghé hút thuốc ăn trầu,
Nhưng sợ mai tê quan biết được, nói "đặt cầu" em leo.
NÓI LÁI TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG HAY NÓI LÁI TỤC.
Hồ Xuân Hương với những bài thơ tả vật, tả cảnh đã dùng những hình tượng , chữ nghĩa rất táo bạo khiến cho người ta thường nghĩ ngay đến các sinh thực khí hay những quan hệ giữa nam nữ, như một ám ảnh tâm lý, nếu nói theo các nhà phân tâm học.( Vịnh Cái Quạt, Đánh Cờ Người, Quả Mít, Đèo Ba Dọi...) lẽ cố nhiên nhà thơ họ Hồ cũng không quên dùng nhiều chữ theo lối nói lái một cách táo bạo trong thơ bà, mà người đọc ai cũng hiểu:
...Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)
...Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)
Nhân nói chuyện lái trong thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi xin trích dẫn một bài thơ nói lái của một tác giả vô danh nhan đề là Trông Trời (xin đọc theo kiểu bắc kỳ là Chông Chời):
Cô kia sao cứ trông trời
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Sau đây lại thêm một bai thơ tục theo kiểu nói lái:
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
BÀI THƠ NÓI LÁI THỜI KHÁNG CHIẾN.
Trong thời kháng chiến chống Pháp, khoảng những năm 1951- 52, sau Đại hội Đảng Lao Động , chính phủ bắt đầu tinh giảm biên chế và loại các thành phần tiểu tư sản ra khỏi bộ máy công quyền, một bài thơ nói lái do một nhân vật vô danh bất mãn bỏ kháng chiến về thành tung ra rất được phổ biến. Chính vì những tiếng nói lái đặc biệt ( tiếng Hán Việt lái thành tiếng nôm ) mà bài thơ được người ta nhớ lâu và truyền tụng :
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chiến khu thu cất chú khiêng rồi
Thi đua thắng lợi thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.
GIAI THOẠI NÓI LÁI THỜI PHÁP THUỘC.
Một giai thoại thời thủ tướng Nguyễn Văn Tâm được lưu truyền ở miền nam như sau: hồi Thủ Tướng Tâm còn là Quận Trưởng Cai Lậy (có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy) lúc ăn mừng tân gia, có người đem tặng một bức hoành có khắc bốn chữ nho : "Đại Điểm Quần Thần" tạm dịch nghĩ a là "bề tôi chức vụ lớn". Nguyễn Văn Tâm lấy làm hãnh diện đắc ý, nhưng sau đó có người phát giác ra là ông Tâm bị chưởi xéo, vì bốn chữ Đại Điểm Quần Thần, dịch nôm sát nghĩa là Chấm To Bầy Tôi.. nói lái ra thành Chó Tâm Bồi Tây.
Lối nói này cũng phổ biến như người ta nói tới một người đàn bà "bách diệp", nghĩa nôm là "trăm lá", nói lái là "tra lắm" (già lắm).
NÓI LÁI THỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Sau tháng 4 năm 1975, dân tình cực khổ , do đó trong nhân gian có những câu nói lái rất phổ thông:
Quy mã là qua Mỹ , hay :
Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo dày.
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên... sáng ăn khoai.
Nói về tệ nạn cửa quyền tham nhũng và các tệ nạn thì nhân gian có các câu nói lái :
Thủ tục đầu tiên là ..tiền đâu ?
Vũ Như Cẩn là Vẫn như cũ.
Nguyễn Y Vân là Vẫn Y Nguyên
Bùi Lan là Bàn Lui
Hộ khẩu là Hậu khổ.
Chỉ riêng ngành giáo dục không thôi đã có nguyên một bài nói lái tự thán như sau :
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm tốt thôi.
THƠ NÓI LÁI KHÔNG TỤC.
Cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi là một nhà thơ Đất Thần Kinh, ở Vỹ Dạ đã làm một bài thơ nói lái rất công phu và có ý nghĩa như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải (**)
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Ông Tôn Thất Đàm ở Úc đã có một bài nói lái nhan đề “Má Con” như sau:
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.
Trong nhân gian, người ta rất thích thú được nói lái và nghe nói lái, có khi bất chợt tình cờ vô ý mà tiếng nói ra thành một tiếng nói lái, có khi người ta tìm cách đẽo gọt, tìm tòi để kiếm ra những từ nói lái có ý nghĩa. Tác giả có thể là một mà cũng có thể là nhiều người, dần dà ngôn ngữ nói lái thành ra tài sản chung, đóng góp vào trong kho tàng văn chương bình dân của ngôn ngữ Việt Nam. Xin trích dẫn một số tiếng nói lái thông thường mà chúng ta hay bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày:
trễ giờ thì trở (về) dề,- ôm nhiều thành yếu và yêu nhiều thành ốm, - đơn giản như đang giỡn,- chà đồ nhôm là chôm đồ nhà,-cây còn ( mộc tồn ) là con cầy. - cờ tây là cầy tơ.
và nói lái tiếng tây : très chaud (nóng quá) thành trop cher (đắt quá).
Trong giới bình dân có rất nhiều câu nói hoặc chuyện nói lái rất thô tục, rất dễ nói lái với những tiếng có vần ”ôn” như môn, tôn...chủ yếu nhắm vào các bộ phận sinh dục và chuyện quan hệ giữa nam nữ ...mà trong thơ Hồ Xuân Hưong chúng ta cũng đã thấy ít nhiều, như ta thường nghe trong dân gian như “đạo dụ!”, “ điện lu”, “chồn lùi”, “cụ Đệ”, “mụ Đắc”...
(Nguồn: vietlyso.com)
06-07-2012, 10:42 PM
Quảng Nam nói lái
Chơi chữ là hiện tượng tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào, bằng cách tận dụng hiệu quả của ”đồng âm dị nghĩa”. Các câu đối Hán Việt đã cho chúng ta biết bao ví dụ về cách chơi chữ ”đồng âm dị nghĩa”.
Nhưng “nói lái“ chắc hẳn là cách chơi chữ độc nhất vô nhị của những ngôn ngữ đơn âm, trong đó có tiếng Việt. Dường như trong tiếng Pháp chỉ có vài cặp chữ từ “très chaud” (nóng lắm) thành ”trop cher” (mắc quá). Nhưng những cụm từ đó có lẽ chỉ được phát hiện tình cờ, và không mang tính bản chất.
Cả nước ta có rất nhiều vùng nói lái, và mỗi vùng đều ít nhiều mang một sắc thái riêng, nhưng cách nói lái hòa nhập tự nhiên trong ngôn ngữ đời thường có lẽ phải nói đến vùng đất Quảng Nam. Giọng Quảng Nam phát âm rất sai các phụ âm v,d ở đầu chữ, các phụ âm c,t ở cuối chữ, các nguyên âm a, ă cùng các điệp nguyên âm đi chung với nó như ao, ắt …, đặc biệt là các âm “g” ở cuối chữ và các dấu “hỏi”, dấu ”ngã”. Khoai lang và hoa lan được đọc thành một âm. Nhưng chính đặc điểm nhập nhằng không rõ ràng trong phát âm lại là miếng đất màu mỡ cho nói lái phát triển. Nói lái kiểu Quảng Nam thường mang đặc điểm “chém to kho mặn” của người dân vùng đất này, nghĩa là người ta khoái nói lái “mặn”.
Trong các cụm từ nói lái đó, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể hoặc những điều bị xem là “vùng cấm kỵ” trong ngôn ngữ. Thông thường người có “văn hóa” ít hoặc không bao giờ nói đến những “vùng cầm kỵ”, dầu đó những vùng mà họ luôn xâm nhập vào và luôn nghĩ đến. Chỉ có người nông dân mới dám mạnh dạn nói cái mình nghĩ dưới cái lốt nói lái, dầu chỉ để thư giãn. Trong đời thường, những câu chuyện tiếu lâm mặn đôi khi lại kéo lại gần nhau hơn những người còn đang e ngại nhau trong buổi sơ giao. Lạm dụng tiếu lâm mặn hay lói nói lái mặn thì dễ trở thành suồng sã, nhưng nếu dùng đúng liều thì nó có thể trở thành một chất kết chặt tình thân.
Trong cuộc nói chuyện thường ngày, người dân Quảng thường luôn luôn tận dụng mọi cơ hội nói lái để góp thêm tiếng cười. Dường như người dân Quảng Nam nào cũng mang sẵn máu tiếu lâm trong người nên họ thường tiếp thu nói lái rất nhanh và nhạy bén. Trong một buổi liên hoan, được một cô bạn đồng nghiệp mời uống, chắc chắn anh chàng được mời thế nào hoan hỉ uống cạn và nhắc nhở : “Mời thì tôi uống, nhưng khi tôi muốn là phải ời đó nghe!”. Muốn cái gì và đối phương có chịu “ời” không, điều đó không quan trọng bằng một trận cười. Liên hoan ở cơ quan xong, thế nào cũng có một đấng mày râu đề nghị đi hát karaôkê với lời giải thích : ”Đã ăn no cái bụng thì muốn bung cái nọ”. “Cái nọ” là cái gì mà cần phải “bung”, điều đó cứ tự hiểu mà .. bật cười.
Các cô tiếp thị bia người Quảng Nam tại các quán nhậu, ngoài bản chất nói lái cố hữu, dường như được “tôi rèn” thêm qua nền ”văn hóa nhậu” nên khả năng nói lái đáng nể, khiến ngay các “chuyên gia nói lái” Quảng Nam cũng lắm khi phải chịu… “cam bái hạ phong”. Tên các món ăn thức uống đều trở thành phương tiện để đùa bỡn, chọc ghẹo nhau. Lươn thì phải có món lươn nấu với rau dền, hay gọi tắt là lươn dền. Dưa leo thì phải là loại leo đá và phải được thái dọc ăn mới ngon. Mực thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, tức món mực ngò, còn thịt rừng thì phải là thịt rừng nướng, riêng thịt chồn phải lùi mới đúng bài. Món thịt kỳ nhông được gọi là món “khủng long đời cuối”, nhưng khi gọi thì các bợm nhậu không quên hỏi thêm cô tiếp thị có thích món long nền hay không. Ăn mít phải có người đút cho thì ăn mới thấy ngon. Ăn lẩu thì phải đốt bằng cồn Lào hoặc cồn lỏng mới mau sôi hơn cồn đặc!
Đầu năm đi xem bói giò gà, có bà còn bỡn cả ông thầy coi bói : “Thầy xem thử cái giò ni có dững không, chắc cái ni dững”. “Dững” ở đây có nghĩa là “vững vàng”, vì phát âm sai nên nó lại trở thành lợi khí chơi chữ khi ghép với “cái” để thành “cái dững”. Người đồng hương được gọi là người “một làng”, người dân quê được gọi là người ở các “làng thôn”. Một đức ông chồng gây gỗ đánh vợ, làng giềng can ngăn. Hôm sau thấy vợ chồng lại vui vẻ, bạn bè hỏi, anh ta trả lời : “Giận thì làm vậy chứ tui có đánh đấm chi đâu, có đánh bả cũng chỉ là đánh mẹo thôi mà”.
Nhưng chính trong thơ ca, cái đặc tính nói lái đó mới thực sự trở thành một sắc thái đặc biệt của Quảng Nam. Bùi Giáng là nhà thơ xứ Quảng thường đưa vào ngôn ngữ của mình cái lối cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái của quê hương ông. Người đọc thường gặp trong sách của ông những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…Trong các cụm từ nói đó, ngay chỗ oái ăm nhất ông ưa đặt một chữ hợp nghĩa khác (ngọ, trung, họp). Ông cũng ưa đùa bỡn như thế trong thơ mình:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Không phải cần đến cây đa cây đề trong làng thơ, người bình dân xứ Quảng vẫn khoái làm thơ nói lái. Có một ông thợ hớt tóc góa vợ có quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Cả hai đều ở tuổi “U50”. Điều đó thì quá bình thường, thậm chí còn mang nét “cận nhân tình” nữa, nhưng hai câu thơ ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình mới thực sự đáng ghi nhớ :
Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo đất mới rời em ra (!)
Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê. Ở xứ Quảng có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Nhiều bài thơ nói lái “mặn” của ông có lẽ khiến cả bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương phải “kính cẩn nghiêng mình”. Bài thơ nói lái tôi chép dưới đây được ông làm trong một tình huống có thực. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Câu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này, và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu.
Ai bàn chi chuyện đã an bài
Trai khiển đồng tình gái triển khai
Cứ sợ cho nên thành cớ sự
Mai than mốt thở lỡ mang thai
Tính từ ngày tháng vương tình tứ
Khai ổ bây giờ báo khổ ai
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng
Thôi đành để chúng được thành đôi
Ngẫm mới thấy bài thơ sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chìu theo; nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “sự cố”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc. Hai câu cuối quả thực vô cùng cảm động và mang nặng tính nhân văn.
Thơ lái đến mức đó là đã đạt “lô hỏa thuần thanh”. Trên đây mới chỉ là bài thơ nói lái “chay”. Tôi rất mong có dịp giới thiệu đầy đủ những bài thơ “chay” lẫn “mặn” của nhà thơ dân gian này cùng bạn đọc, để bạn đọc có dịp hiểu thêm về thơ nói lái của người Quảng Nam.
Ở Quảng Nam, người nào có tài nói lái thì được khen là người nói lái giỏi, ngược lại là nói lái dở. Nói lái nhanh quá và nhiều quá thì bị chê là nói lái dồn. Những người “ngoại đạo” với cung cách nói lái chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều điều lý thú bất ngờ khi tìm hiểu cách nói lái của người Quảng Nam. Bên cạnh những điểm tinh tế về ngôn ngữ, ít ra là nó sẽ tạo những trận cười sảng khoái và thắt chặt thêm mối tình thân bên chén rượu.
HUỲNH NGỌC CHIẾN
Chơi chữ là hiện tượng tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào, bằng cách tận dụng hiệu quả của ”đồng âm dị nghĩa”. Các câu đối Hán Việt đã cho chúng ta biết bao ví dụ về cách chơi chữ ”đồng âm dị nghĩa”.
Nhưng “nói lái“ chắc hẳn là cách chơi chữ độc nhất vô nhị của những ngôn ngữ đơn âm, trong đó có tiếng Việt. Dường như trong tiếng Pháp chỉ có vài cặp chữ từ “très chaud” (nóng lắm) thành ”trop cher” (mắc quá). Nhưng những cụm từ đó có lẽ chỉ được phát hiện tình cờ, và không mang tính bản chất.
Cả nước ta có rất nhiều vùng nói lái, và mỗi vùng đều ít nhiều mang một sắc thái riêng, nhưng cách nói lái hòa nhập tự nhiên trong ngôn ngữ đời thường có lẽ phải nói đến vùng đất Quảng Nam. Giọng Quảng Nam phát âm rất sai các phụ âm v,d ở đầu chữ, các phụ âm c,t ở cuối chữ, các nguyên âm a, ă cùng các điệp nguyên âm đi chung với nó như ao, ắt …, đặc biệt là các âm “g” ở cuối chữ và các dấu “hỏi”, dấu ”ngã”. Khoai lang và hoa lan được đọc thành một âm. Nhưng chính đặc điểm nhập nhằng không rõ ràng trong phát âm lại là miếng đất màu mỡ cho nói lái phát triển. Nói lái kiểu Quảng Nam thường mang đặc điểm “chém to kho mặn” của người dân vùng đất này, nghĩa là người ta khoái nói lái “mặn”.
Trong các cụm từ nói lái đó, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể hoặc những điều bị xem là “vùng cấm kỵ” trong ngôn ngữ. Thông thường người có “văn hóa” ít hoặc không bao giờ nói đến những “vùng cầm kỵ”, dầu đó những vùng mà họ luôn xâm nhập vào và luôn nghĩ đến. Chỉ có người nông dân mới dám mạnh dạn nói cái mình nghĩ dưới cái lốt nói lái, dầu chỉ để thư giãn. Trong đời thường, những câu chuyện tiếu lâm mặn đôi khi lại kéo lại gần nhau hơn những người còn đang e ngại nhau trong buổi sơ giao. Lạm dụng tiếu lâm mặn hay lói nói lái mặn thì dễ trở thành suồng sã, nhưng nếu dùng đúng liều thì nó có thể trở thành một chất kết chặt tình thân.
Trong cuộc nói chuyện thường ngày, người dân Quảng thường luôn luôn tận dụng mọi cơ hội nói lái để góp thêm tiếng cười. Dường như người dân Quảng Nam nào cũng mang sẵn máu tiếu lâm trong người nên họ thường tiếp thu nói lái rất nhanh và nhạy bén. Trong một buổi liên hoan, được một cô bạn đồng nghiệp mời uống, chắc chắn anh chàng được mời thế nào hoan hỉ uống cạn và nhắc nhở : “Mời thì tôi uống, nhưng khi tôi muốn là phải ời đó nghe!”. Muốn cái gì và đối phương có chịu “ời” không, điều đó không quan trọng bằng một trận cười. Liên hoan ở cơ quan xong, thế nào cũng có một đấng mày râu đề nghị đi hát karaôkê với lời giải thích : ”Đã ăn no cái bụng thì muốn bung cái nọ”. “Cái nọ” là cái gì mà cần phải “bung”, điều đó cứ tự hiểu mà .. bật cười.
Các cô tiếp thị bia người Quảng Nam tại các quán nhậu, ngoài bản chất nói lái cố hữu, dường như được “tôi rèn” thêm qua nền ”văn hóa nhậu” nên khả năng nói lái đáng nể, khiến ngay các “chuyên gia nói lái” Quảng Nam cũng lắm khi phải chịu… “cam bái hạ phong”. Tên các món ăn thức uống đều trở thành phương tiện để đùa bỡn, chọc ghẹo nhau. Lươn thì phải có món lươn nấu với rau dền, hay gọi tắt là lươn dền. Dưa leo thì phải là loại leo đá và phải được thái dọc ăn mới ngon. Mực thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, tức món mực ngò, còn thịt rừng thì phải là thịt rừng nướng, riêng thịt chồn phải lùi mới đúng bài. Món thịt kỳ nhông được gọi là món “khủng long đời cuối”, nhưng khi gọi thì các bợm nhậu không quên hỏi thêm cô tiếp thị có thích món long nền hay không. Ăn mít phải có người đút cho thì ăn mới thấy ngon. Ăn lẩu thì phải đốt bằng cồn Lào hoặc cồn lỏng mới mau sôi hơn cồn đặc!
Đầu năm đi xem bói giò gà, có bà còn bỡn cả ông thầy coi bói : “Thầy xem thử cái giò ni có dững không, chắc cái ni dững”. “Dững” ở đây có nghĩa là “vững vàng”, vì phát âm sai nên nó lại trở thành lợi khí chơi chữ khi ghép với “cái” để thành “cái dững”. Người đồng hương được gọi là người “một làng”, người dân quê được gọi là người ở các “làng thôn”. Một đức ông chồng gây gỗ đánh vợ, làng giềng can ngăn. Hôm sau thấy vợ chồng lại vui vẻ, bạn bè hỏi, anh ta trả lời : “Giận thì làm vậy chứ tui có đánh đấm chi đâu, có đánh bả cũng chỉ là đánh mẹo thôi mà”.
Nhưng chính trong thơ ca, cái đặc tính nói lái đó mới thực sự trở thành một sắc thái đặc biệt của Quảng Nam. Bùi Giáng là nhà thơ xứ Quảng thường đưa vào ngôn ngữ của mình cái lối cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái của quê hương ông. Người đọc thường gặp trong sách của ông những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…Trong các cụm từ nói đó, ngay chỗ oái ăm nhất ông ưa đặt một chữ hợp nghĩa khác (ngọ, trung, họp). Ông cũng ưa đùa bỡn như thế trong thơ mình:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Không phải cần đến cây đa cây đề trong làng thơ, người bình dân xứ Quảng vẫn khoái làm thơ nói lái. Có một ông thợ hớt tóc góa vợ có quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Cả hai đều ở tuổi “U50”. Điều đó thì quá bình thường, thậm chí còn mang nét “cận nhân tình” nữa, nhưng hai câu thơ ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình mới thực sự đáng ghi nhớ :
Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo đất mới rời em ra (!)
Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê. Ở xứ Quảng có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Nhiều bài thơ nói lái “mặn” của ông có lẽ khiến cả bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương phải “kính cẩn nghiêng mình”. Bài thơ nói lái tôi chép dưới đây được ông làm trong một tình huống có thực. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Câu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này, và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu.
Ai bàn chi chuyện đã an bài
Trai khiển đồng tình gái triển khai
Cứ sợ cho nên thành cớ sự
Mai than mốt thở lỡ mang thai
Tính từ ngày tháng vương tình tứ
Khai ổ bây giờ báo khổ ai
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng
Thôi đành để chúng được thành đôi
Ngẫm mới thấy bài thơ sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chìu theo; nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “sự cố”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc. Hai câu cuối quả thực vô cùng cảm động và mang nặng tính nhân văn.
Thơ lái đến mức đó là đã đạt “lô hỏa thuần thanh”. Trên đây mới chỉ là bài thơ nói lái “chay”. Tôi rất mong có dịp giới thiệu đầy đủ những bài thơ “chay” lẫn “mặn” của nhà thơ dân gian này cùng bạn đọc, để bạn đọc có dịp hiểu thêm về thơ nói lái của người Quảng Nam.
Ở Quảng Nam, người nào có tài nói lái thì được khen là người nói lái giỏi, ngược lại là nói lái dở. Nói lái nhanh quá và nhiều quá thì bị chê là nói lái dồn. Những người “ngoại đạo” với cung cách nói lái chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều điều lý thú bất ngờ khi tìm hiểu cách nói lái của người Quảng Nam. Bên cạnh những điểm tinh tế về ngôn ngữ, ít ra là nó sẽ tạo những trận cười sảng khoái và thắt chặt thêm mối tình thân bên chén rượu.
HUỲNH NGỌC CHIẾN
07-07-2012, 11:08 PM
Có hai câu ngày xưa Ngoại mình hay đọc, post lên huynh đệ tỷ muội đọc cho zui nè.
1. Chi ma đui kỉ chà hôm quiêu. Hà thum mu giá cạn ba lầy cá không rim.
2. Hít mái đô dem bòn ca xái lụm ôi cho rằn.

1. Chi ma đui kỉ chà hôm quiêu. Hà thum mu giá cạn ba lầy cá không rim.
2. Hít mái đô dem bòn ca xái lụm ôi cho rằn.

07-07-2012, 11:12 PM
(07-07-2012, 11:08 PM)Hồ Yên Dung Đã viết: [ -> ]Có hai câu ngày xưa Ngoại mình hay đọc, post lên huynh đệ tỷ muội đọc cho zui nè.
1. Chi ma đui kỉ chà hôm quiêu. Hà thum mu giá cạn ba lầy cá không rim.
2. Hít mái đô dem bòn ca xái lụm ôi cho rằn.
câu số hai tạm hiểu:
mít đóc đem ăn, bà con xúm lại chia cho đều....heheee
Trang: 1 2