Thi Ẩm Lâu

Phiên bản đầy đủ: Chuyện Đông chuyện Tây - An Chi!
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Bạn có thể xem bản đầy đủ.
Trang: 1 2 3 4
77. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Trong bài “Đôi điều thu lượm quanh Hán tự” (Văn nghệ, số 43, 1992), Nguyễn Dậu có nói rằng Nguyễn Du đã dùng nhầm mấy tiếng lầu xanh và thanh lâu “khiến cho mấy chục triệu người Việt đều nghĩ rằng lầu xanh là nơi ổ chứa ca kỹ (gái điếm)”. Ông nói rằng ở Trung Quốc, người ta không hề coi thanh lâu là ổ điếm mà lại hiểu đó là “nhà cao lầu của những người phú quí”. Vậy có đúng là Nguyễn Du đã nhầm hay không? Tác giả còn nói rằng do đọc sai mà “tất cả các nhà nho Việt Nam từ cổ đến giờ đều gọi hai cái hột của giống đực là dịch hoàn” nhưng “cả tỷ người Trung Hoa đều gọi là cao hoàn”. Có thật đúng như thế không?

AN CHI: Về hai tiếng thanh lâu, Từ hải đã giảng như sau:

1. Lầu Hưng Quang của Vũ đế, bên trên sơn xanh, người đời gọi là thanh lâu (Vũ Đế Hưng Quang lâu, thượng thi thanh tất, thế nhân vị chi thanh lâu).
2. Chỉ lầu gác của nhà hào phú (Vị hào gia chi lâu).
3. Chỉ lầu của người đẹp ở (Vị mỹ nhân sở cư chi lâu)
4. Chỉ nơi hành nghề của gái điếm (Vị kỹ viện dã)

Vậy Nguyễn Du đã không nhầm vì cái nghĩa do Nguyễn Dậu nêu lên chỉ là một trong bốn nghĩa của hai tiếng thanh lâu mà thôi.

Còn chuyện "hai cái hột của giống đực” thì lại hoàn toàn đúng như Nguyễn Dậu đã nêu. Đó là trướng hợp “tác đánh tộ, ngộ đánh quá” vì tự dạng của chữ dịch 睪 và chữ cao 睾 rất giống nhau: chúng chỉ khác nhau ở nét phẩy ' phía trên bên trái của chữ 睾 mà thôi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đều phiên âm đúng chữ đang xét là cao và đều giảng cao hoàn là “ngoại thận = hòn dái” (Đào Duy Anh), “hòn dái” (Nguyễn Quốc Hùng), “hạt dái” (Thiểu Chửu).

Trớ trêu là ngày nay hầu như không ai nói cao hoàn mà chỉ nói dịch hoàn. Hai tiếng này đã được Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng là “hai hòn dái của đàn ông và của một số động vật giống đực”. Còn Từ điển tiếng Việt 1992 thì ghi: “dịch hoàn, d.x. tinh hoàn” mà tinh hoàn thì được giảng là “cơ quan sinh ra tế bào sinh dục đực”. Rõ ràng là dùng từ sai đấy, nhưng chẳng biết có ai muốn sửa lại cho đúng hay không.


79. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Với bà Hồ Xuân Hương thì nương long có nghĩa là “ngực thiếu nữ”:

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Nhưng với một nhà thơ miền Nam cận đại có hai câu lục bát tả bốn cái khoái của con người thì nương long lại là “cái hậu môn”:

Cơm Phiến Mẫu, chiếu Trần Đoàn
Ngửa nghiêng loan phụng, nhẹ nhàng nương long.


Xin cho biết nghĩa nào đúng, nghĩa nào sai.

AN CHI: Ta thấy về cái khoái thứ nhất, tác giả không nhắc đến miệng mà nói “cơm Phiến Mẫu”; về cái khoái thứ hai, ông không nhắc đến hai con mắt mà nói “chiếu Trần Đoàn”; về cái khoái thứ ba, ông không nhắc đến cái … gì của nữ và của nam mà nói “ngửa nghiêng loan phụng”. Vậy về cái khoái thứ tư, lẽ nào ông lại phải nhắc đến “cửa sau”?

Nương long có nghĩa là ngực – không chỉ là ngực thiếu nữ - từ đó nó có một nghĩa rộng là khoang bụng, là dạ rồi từ nghĩa rộng này nó mới có nghĩa bóng là lòng dạ như đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của hoặc Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ.

Trong liên thơ lục bát trên đây, nương long đã được dùng theo nghĩa rộng (khoang bụng, dạ). Khi người ta đi chảy là người ta bị tháo dạ. Khi người ta ăn không tiêu là người ta bị cứng dạ (A. de Rhodes ghi trong Từ Điển Việt-Bồ-La: “Cứng dạ. Không tiêu, đầy cứng bụng”).

Còn khi người ta đi một cách bình thường, không quá chặt quá khó vì bị táo bón, cũng không … té re vì bị Tào Tháo rượt, thì người ta cảm thấy nhẹ bụng, êm dạ, nghĩa là nhẹ nhàng nương long. Vậy nương long không có nghĩa là hậu môn.
86. (KTTN 116, ngày 15-8-1993)
Nhiều học giả trước đây vẫn phân tích chữ hồ 胡 gồm có cổ 古 và nguyệt 月 nghe rất hay. Nay lại có người lại cho rằng nó gồm có cổ 古 và nhục 肉 nghe đã lạ mà lại không thanh nhã. Xin cho biết cách phân tích nào đúng?

AN CHI:

Chữ hồ 胡 là một hình thanh tự mà thanh phù là chữ cổ 古 còn nghĩa phù là chữ nhục 肉 đã được viết thành 月 trong 248/253 chữ thuộc bộ nhục mà Từ Hải đã ghi nhận. Tỉ lệ này trong Khang Hy tự điển là 654/680 vì bộ tự điển này đã thu thập rất nhiều chữ kể cả các kỳ tự (chữ hiếm thấy). Chữ thứ hai, thuộc bộ nhục 肉 mà Khang Hy tự điển đã ghi nhận là chữ 月. Chữ này được giảng như sau: “Theo Chính tự thông, chữ nhục 肉 khi đứng làm biên bàng vốn viết là 肉, thạch kinh (sách kinh điển khắc trên đá) sửa làm 月. Hai nét trong dính liền từ trái sang phải, khác với chữ nguyệt 月. Nay thường viết 月 để phân biệt” (Chính tự thông: Nhục tự biên bàng chi văn bổn tác 肉. Thạch kinh cải tác 月. Trung nhị hoạch liên tả hữu, dữ nhật nguyệt chi nguyệt月 dị. Kim tục tác月 dĩ biệt chi). Nói thế nhưng chính Khang Hy tự điển cũng viết chữ nhục biên bàng thành 月 trong 654 chữ đã nói, y hệt như chữ nguyệt biên bàng 月, hoàn toàn không phân biệt tự hình. Từ nguyên, Từ hải, đều làm như thế. Đây là hiện tượng đồng hình dị tự (cùng hình khác chữ).

Tên tạp chí Văn nghệ, số 10-1962, Nguyễn Đức Bính có bài “Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Huơng”. Trên Kiến thức ngày nay số 54 (Xuân Tân Mùi) cũng có bài “Vườn hoa nàng Cổ Nguyệt” trong đó tác giả nói đến tòa Cổ Nguyệt Đường của Hồ Xuân Hương. Nếu đây chỉ là chuyện chơi chữ thì đó là quyền của tác giả. Nhưng nếu cả quyết rằng về mặt cấu tạo văn tự, chữ hồ 胡 gồm có chữ cổ 古 và chữ nguyệt 月 thì lại là hoàn toàn sai. Không có bất cứ một tự thư quen thuộc nào của Trung Hoa đã cho rằng ở trong 胡 thì 月 lại là chữ nguyệt. Tất cả đều phân tích và khẳng định rằng đó là chữ nhục.

(như vậy, theo tôi, lối chơi chữ trong tên của nàng Xuân Hương có khi chỉ là ... chuyện bịa)


87. (KTTN 117, ngày 15-8 & 02-09-1993)
Nga my vốn được dịch là mày ngài, tại sao Nguyễn Du viết mày ngài để tả Từ Hải mà nhiều học giả lại giảng rằng đó là ngọa my tàm, nghĩa là “mày tằm nằm” chứ không phải là nga my?

AN CHI: Các học giả và các nhà nghiên cứu đó giảng như thế là vì họ cho rằng nga my là lông mày dài, cong và đẹp, không thích hợp với tướng mạo của con nhà võ như Từ Hải, nhưng nhất là vì họ đã hiểu sai nghĩa của ba tiếng ngọa tàm my.

Đào Duy Anh giảng rằng mày ngài là “lông mày rậm, tướng mạo của người trượng phu. Có lẽ theo câu “my nhược ngọa tàm” của sách tướng, có nghĩa là “lông mày giống như con tằm nằm” (Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974, tr. 236-237). Nguyễn Thạch Giang chú thích như sau: “Mày ngài do các chữ ngọa tàm my: lông mày to đậm cong như con tằm, là tướng người anh hùng” (Nguyễn Du, Truyện Kiều, Hà Nội, 1972, tr.450, c.2167). Nguyễn Vinh Phúc viết: “Tất nhiên mày của Từ Hải không thể nào lại mảnh dẻ, cong, dài như nga my của các cô gái đẹp được. Và do đó mày ngài của Từ Hải phải hiểu là ngọa tàm my là mày như con tằm, chứ không phải nga my” (Quanh đôi lông mày, Ngôn ngữ, số 2, 1970, tr. 60). Còn Kiều Thu Hoạch thì viết: “ Trong Truyện Kiều có hai chỗ nói về Từ Hải mà cũng dùng chữ mày ngài. Nhưng chớ lầm! Đây là cái mày ngài “sâu róm” chớ không phải cái mày ngài của nàng Trang Khương (…) đó là tác giả muốn nói mày tằm, mày tằm nằm” (Góp bàn về một bản Kiều mới, Tạp chí Văn học, số 2 (146), 1974, tr. 68).

Tiếc rằng các tác giả trên đây vì chỉ hiểu từ ngữ theo lối dịch từng tiếng một (ngọa = nằm, tàm = tằm, my = mày) nên đã giảng sai hình ảnh người Trung Hoa muốn gửi gắm trong 3 tiếng ngọa tàm my. Ở đây, hai tiếng ngọa tàm không hề có nghĩa là “(con) tằm nằm”, mà lại là lối nói của tướng thuật, được Từ nguyên giảng như sau: “Nhà tướng thuật gọi nếp nhăn dưới vành mắt là ngọa tàm. Lại nữa, lông mày cong mà đường nét thanh đẹp cũng được gọi là ngọa tàm my” (Tướng thuật gia dĩ nhãn khuông hạ văn vi ngọa tàm. Hựu my loan nhi đái tú giả dịch xưng ngọa tàm my). Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đã giảng đúng hai tiếng ngọa tàm là “lằn xếp dưới mí mắt”, kèm theo ví dụ trích từ Truyện Trinh thử:

To đầu vú, cả dái tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngọa tàm.

Nếu đối dịch từng tiếng một thì ngư vĩ sẽ là “đuôi cá”. Nhưng đây cũng lại là một lối nói của tướng thuật mà Từ nguyên giảng như sau: “Nhà tướng thuật gọi nếp nhăn ở khóe mắt là ngư vĩ” (Tướng thuật gia dĩ nhãn giác chi văn vi ngư vĩ). Xem thế đủ thấy lối đối dịch từng tiếng một nhiều khi tai hại biết chứng nào. Vậy ngọa tàm my không hề có nghĩa là “mày tằm nằm” mà lại là lông mày cong và có đường nét thanh đẹp. Vương Vân Ngũ đại từ điển cũng giảng như thế, rằng đó là “lông mày cong mà đẹp” (my loan nhi tú – X. ở chữ 7370).

Các tác giả trên đây muốn gạt bỏ hai tiếng nga my nhưng ngọa tàm my lại đồng nghĩa với nga my vì cả hai cấu trúc có chung một nét nghĩa là “cong và đẹp”. Vậy mày ngài vẫn là nga my và đây chính là cái nét nho nhã duy nhất trong tướng mạo của Từ Hải râu hùm hàm én, đường đường một đấng anh hào, vai năm tấc rộng thân mười thước cao.


(trước đây, cổ nhân đã có Truyện Trinh thử, chắc là cội rễ của ... Trinh tùng truyện sau này laughing)
89. (KTTN 117, ngày 15-8 & 02-09-1993)
Có một mối tình Xuân Hương – Chiêu Hổ trong thực tế hay không? Hay chỉ có văn thơ cợt nhả với nhau mà thôi?

AN CHI: Quả là người đời có truyền tụng về một mối tình Xuân Hương – Chiêu Hổ. Chả thế mà Phong Châu lại chép: “Ông Chiêu Hổ đi làm quan lâu ngày, Xuân Hương nhớ chỗ nhân tình cũ, mới viết giấy hỏi thăm …” (Câu đối Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 25). Nhưng đó chỉ là giai thoại mà thôi.

Trong thực tế thì mối tình không có đã đành mà chuyện văn thơ cợt nhả cũng không có nốt. Điều khẳng định nghiêm túc này là căn cứ vào lời kể của Siêu Văn, một người thuộc dòng họ Nguyễn Đình, là dòng họ mà có đời và có người đã từng kết thâm giao với cả Hồ Xuân Hương lẫn Phạm Đình Hổ: “Hồ Xuân Hương hơn Phạm Đình Hổ ngót hai chục tuổi, nên không thể có sự luyến ái, họa thơ giữa hai người đó được. Và trong đám cưới của cháu nội bà Đốc trấn là Nguyễn Đình Vũ lấy con gái Phạm Đình Hổ là cô Phạm Đình Huy, nữ sĩ Hồ Xuân Hương là người quen biết cả hai họ nên đã đứng lên làm chủ hôn, theoi tục lệ thời đó”. (Về mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ, Tạp chí Văn học, số 5, 1991, tr. 71). Và ở một đoạn khác: “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương lúc đó đã ngoài bảy mươi tuổi, được mời làm chủ hôn, trải giường chiếu cho cô dâu lấy khước”.

Làm sao có thể quan niệm được rằng người tình cũ của Phạm Đình Hổ, hơn ông ngót 20 tuổi, giờ đây đã ngoài bảy mươi, lại được mời trải giường chiếu cho con gái ông được khước? Làm sao có thể quan niệm được rằng một bà lão đã có thời “chành ra ba góc da còn thiếu” mà lại được mời trải chiếu cho con gái tơ của người khác được khước trước khi về nhà chồng? Cho nên những câu thơ tục tĩu xưa nay vẫn truyền tụng là của bà chắc chắn không phải do bà là tác giả. Siêu Văn cũng nói rõ: “Theo cụ Nguyễn Gia Thái (1858-1935) người được đọc Xuân Hương thi tập do chính tay nữ sĩ chép tặng gia đình ta, thì không có những bài thơ tục tĩu mà ngày nay người ta gán ghép cho nữ sĩ”.

Đến như ông Chiêu Hổ, người mà theo truyền tụng là đã có nhiều câu đối Nôm, lắt léo, tài ba, thì chính ông lại tỏ ra xem thường chữ Nôm và tự nhận là mình kém cỏi về thứ chữ này. Sau đây là lời tự thuật của ông: “Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta lại không biết hết”. (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, TPHCM, 1989, tr.10). Trong khi đó thì: “Ta khi mới lên chín tuổi, đã học Hán thư, (…). Các sách cổ, thơ cổ ta thường xem lắm, không lúc nào rời tay” (Sđd, tr. 10-11). Khi đã cao niên, nhắc lại chuyện thuở ấu thời, Phạm Đình Hổ vẫn còn sẵn sàng gộp “những sách truyện Nôm” vào chung với “những trò thanh sắc” và “nghề cờ bạc”. Một người cả đời vẫn coi thường văn Nôm chữ Nôm đến như thế làm sao có thể là tác giả của những “văn bản” Nôm đã được truyền tụng?
Một thời gian, tôi có hơi đắn đo về việc vi phạm bản quyền khi đưa sách lên mạng. Nhưng cũng như mĩ nữ, một cuốn sách hay càng được nhiều người biết lại càng hút hồn. Vậy nên tôi ngụy biện, rào trước đón sau để tiếp tục công việc này.

Scan sách không thật khó. Nhưng bẩm tính ngại nhờ vả đã khiến tôi chọn phương pháp tiện - nhanh - gọn này. Mọi lời chê trách xin bái lĩnh 030

[Hình: 9459950012_7c4c1bc428_b.jpg]

[Hình: 9457168991_0722093af0_b.jpg]

[Hình: 9459951708_32499ef851_b.jpg]

[Hình: 9457171797_42575bfd30_b.jpg]

[Hình: 9457170821_2fdf01d7b7_b.jpg]
Chụp mờ quá, kiểu ni đọc xong chắc loạn thị quá Mr. Bốn ơi! sad
Thế thì Ms. Chieu không biết rồi. Trên đời có rất nhiều vẻ đẹp. Cũng như mĩ nữ, loại ngồn ngộn thịt da, loại kiêu sa đài các, loại mảnh mai yểu điệu, loại mờ mờ ảo ảo như khói như sương... Đây chính là vẻ đẹp mờ ảo, mong manh, nhìn thì thấy nhưng chạm vào là mất. Đây chính là CHÂN MỸ 030

p/s: Tuy nhiên, mình là người thích ngồn ngồn thịt da. 015

[Hình: 9464198701_cf794a94f5_b.jpg]

[Hình: 9464321019_159da1fa07_b.jpg]

[Hình: 9467107482_85b6dd3fe2_b.jpg]
[Hình: 9482410741_143aa2d6f2_b.jpg]

[Hình: 9485208978_7a74043a78_b.jpg]

[Hình: 9485207152_37e72f9725_b.jpg]
[Hình: 9553231969_e733f723ac_c.jpg]
[Hình: 9553234797_d13335f4b7_c.jpg]


[Hình: 9556452196_5a59a171fd_b.jpg]
[Hình: 9553664467_21f6ec08a8_b.jpg]
[Hình: 9553644781_a6c88d6d3e_b.jpg]
[Hình: 9556433638_256f53bb71_b.jpg]
"Tại cuộc họp báo quý III của Bộ GTVT chiều 4/10, Chủ tịch Tập đoàn Vinashin Nguyễn Ngọc Sự cho biết, Tập đoàn vừa phát hành trái phiếu đợt 1 trị giá gần 12.000 tỷ đồng cho các chủ nợ trong nước với lãi suất bằng trái phiếu chính phủ.
Từ bài báo trên, có thể rút ra kết luận:
1. Vinashin có mức độ tín nhiệm = chính phủ: vinashin ko có rủi ro
2. Chính phủ VN có mức độ tín nhiệm = Vinashin: CP VN rủi ro như Vinashin
Bạn chọn 1 hay 2 017
Trang: 1 2 3 4