Thi Ẩm Lâu
Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - Phiên bản có thể in

+- Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum)
+-- Diễn đàn: Tửu Lầu (https://thiamlau.com/forum/forum-5.html)
+--- Diễn đàn: Phiếm Luận Đường (https://thiamlau.com/forum/forum-14.html)
+--- Chủ đề: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước (/thread-400.html)

Pages: 1 2


Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - hvn - 17-03-2011

Ngày trước tôi từng được đọc một bài có tựa rất lạ - "Lại hối" - của cụ Lãng Nhân trong tập sách nhỏ gồm những ghi chép tản mạn của cụ về đủ thứ chuyện, cuốn ấy đọc rất thú vị mà giờ thất lạc khó tìm lại. Bài "Lại hối" cụ Lãng nói về chuyện nói lái, ngắn gọn mà khái quát được các đặc điểm chính của trò chơi chữ quen thuộc với người VN này, lại dẫn nhiều ví dụ rất vui. Tiếc là giờ không có để đăng lên cho mọi người đọc chơi. Thôi thì chúng ta lấy tạm bài viết của bác Nguyễn Hữu Phước, tuy hơi dài và không sống động như văn phong cụ Lãng, nhưng nhờ sự đầu tư tìm tòi của tác giả và cách trình bày khá khoa học, văn bản này có thể dùng làm tài liệu tham khảo đính kèm với cuốn sách Đê Tiện Bí Lục mà Đê tiện hội sắp công bố.


Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt

Nguyễn Hữu Phước, Ph.D.


Dẫn nhập.

Vào đầu thập niên 1990, Tiến Sĩ Lê Văn, lúc đó là Cố Vấn cho Bộ Giáo Dục California, có tổ chức một hội thảo về "Những chuyện vui trên đường hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ (HK)." Diễn giả gồm nhiều giáo chức Việt Nam cư ngụ rải rác nhiều nơi ở HK và Canada. Tôi được tham dự với tư cách một thuyết trình viên. Sau một ngày hội thảo , chia sẻ những mẩu chuyện vui với các hội thảo viên, chúng tôi có dịp dùng cơm tối chung do ban tổ chức khoản đãi. Tôi ngồi cạnh Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa. Thật là một buổi hội ngộ hiếm có của một số đồng nghiệp cũ. Câu chuyện trong bàn ăn là những chuyện hàn huyên xen lẫn với nhiều chuyện vui trên đường định cư. Tôi kể ra một số những tiếng lái, câu lái và những lối nói lái gọi là góp phần trong một buổi tiệc hiếm có. Lẽ dĩ nhiên là có một vài tiếng lái và một vài câu lái không được thanh tao lắm. Nhưng các đồng nghiệp trong bàn có vẻ vui vẽ vì câu chuyện nói lái.

Điều đặc biệt là GS Hòa có vẻ cũng thích những câu nói lái. Ông lấy bút, giấy ra, bảo tôi "bớt ga xăng" để ông ghi chép. Tôi nói với ông là còn nhiều câu khác mà tôi có nghe đến, có vẻ kém lịch sự hơn vì trắng trợn hơn. Ông nói không sao, chúng ta đang học hỏi, chia sẻ những chuyện vui, ghi lại những gì mình biết là điều tốt trong việc lượm lặt những mẩu chuyện do dân chúng truyền khẩu. Tôi nổi hứng hứa liều: GS khỏi ghi chép, tôi sẽ viết thành một bài gởi đến GS để đăng báo nào cũng được. Ông nói gởi đến cho Ông hay gởi cho báo nào cũng chẳng sao, miễn là nhớ ghi lại và phổ biến để góp phần cho vui. Rồi thời gian trôi qua, cuộc sống quá bận rộn, và rồi tháng nầy chầy tháng khác, năm nọ kéo năm kia, và nghề nghiệp lại không dính dáng vì tới khung cảnh nghiên cứu, tôi đành tự nhủ là khi nào rảnh rỗi sẽ viết. Rồi tôi lại nghe nói GS về California. Cùng với một số giáo sư khác như GS Lê Văn, GS Nguyễn Khắc Hoạch v.v., ông mở Viện Việt Học. Và sau đó tôi đọc tin GS Hòa qua đời. Tôi cầm tờ báo có cáo phó, ngẩn ngơ. Món nợ tinh thần nầy làm sao trả được. Cách đây vài năm, tôi về hưu, rời vùng South Pasadena, và định cư ở Orange County. Giờ đây tôi có một số giờ nhàn rỗi nên tôi cố gắng viết lại bài "nói lái" nầy và giao nó cho GS Lê Văn, cố vấn của Viện Việt Học. Người anh khả kính nầy đã là "xếp" của tôi, và nhà tôi, trong nhiều năm ở Đại Học Sư Phạm Saigon. Hơn nữa Tiến Sĩ Nguyễn thị Bảo Xuyến (bà Lê Văn) lại là Phó Viện Trưởng Viện Việt Học. Như vậy tôi đã có dịp làm tròn lời hứa với GS Hòa một cách gián tiếp, và cũng để góp chút xíu những điều lượm lặt nói lên sự phong phú và tính cách đa dạng của tiếng Việt.

Không biết văn nói lái hoặc việc dùng tiếng lái trong văn nói và văn viết có từ bao giờ. Riêng tôi, tôi đã nghe, bắt chước và dùng nói lái từ lúc còn học tiểu học vào thập niên 1940. Sau nầy đọc sách mới biết rằng lối nói lái đã được dùng từ lâu hơn tôi tưởng. Người ta nói lái để chơi chữ, để bông đùa giữa bạn bè với nhau, để châm biếm vô hại một sự việc gì đó cho vui, hoặc châm biếm một người khác mà không dám nói trực tiếp. Ngay cả trong việc đặc tên hiệu hoặc thương hiệu cũng có dùng tiếng lái như trường hợp của nhà thơ Thế Lữ với tên thật là Nguyễn Thứ Lể. Thế Lữ là tiếng lái của Thứ Lễ.

Tôi xin thưa trước những chuyện cười thì phải có người nói và người nghe. Người nói phải có tài nói chuyện vui. Phải lựa chuyện cho đúng với thành phần thính hay khán giả thì câu chuyện mới được thưởng thức. Còn nếu viết chuyện cười để cho thiên hạ đọc thì chưa chắc tất cả người đọc đều cười và đôi khi còn nghe chê là chuyện cười nầy hay chuyện cười kia "dở ẹt". Nhưng cũng câu chuyện dở ẹt đó mà do một người có tài kể, và kể đúng lúc, đúng trường hợp thì lại là chuyện hay. Cũng y vậy, đã gọi là "nói lái" thì phải nói đúng chuyện, đúng lúc, đúng nơi, đúng với thành phần thính giả thì may ra mới được thưởng thức. Do đó, vì đây là bài sưu khảo nên tôi phải viết tất cả những chuyện gì mà tôi có thể ghi lại theo trí nhớ, hoặc ghi ra từ những tài liệu khác. Đọc bài nói lái chắc chắn là dễ nhàm chán hơn là nghe nói lái. Xin quý vị chịu khó đọc hết để thấy nhiều dạng khác nhau của việc nói lái.

Nói lái trong một số sách vở.

Từ đoạn nầy trở về sau, "chữ" (còn gọi là "từ" hay hay nhóm chữ (cụm từ) , hoặc câu thơ nào có thể viết tiếng lái ra, tôi sẽ viết. Nếu cảm thấy bất tiện vì tiếng lái có vẻ quá "tả chân" hay gọi là không được thanh tao, tôi xin miễn viết ra để gọi là tôn trọng cả những người cho rằng không nên viết những từ có vẻ quá ...trớn. Tôi chỉ tô đậm, hoặc gạch dưới những từ có thể hiểu theo nghĩa lái, hoặc không gạch dưới gì cả.

Nói lái tiếng Pháp:

Ông Lãng nhân, trong quyển Chơi Chữ có nhắc chuyện nói lái bằng tiếng Pháp. Chuyện rằng có một cặp vợ Việt, chồng Pháp vào hàng tranh sơn mài. Vì chủ nhân nói thách quá nên vợ rỉ tai chồng: "très chaud, très chaud (nghĩa đen: nóng quá, nóng quá). Chồng lật đật chọn tranh, trả tiền nhanh để ra ngoài cho bà vợ được mát hơn. Vợ trách chồng khi ra khỏi cửa " Đã bảo đắt quá mà còn mua". Chồng nói là có thấy vợ kêu đắt đâu. Vợ bảo có nói rồi "très chaud" là "trop cher" (mắc quá). Bà ấy đã nói lái theo kiểu VN, chắc chắn là "bố" của anh chồng cũng không hiểu được.

Nói lái cho vui về nguồn gốc của một người:

Ông Nguyễn Ngọc Huy, trong quyển Tên Họ Người Việt Nam, có thuật câu chuyện đại khái như sau. Ngày xưa có nhiều người VN từ miền Trung tiếp tục vào Nam lập nghiệp. Dân Nam, vì không biết rõ địa lý miền Trung, gọi chung những người mới vào sau là "người Huế". Có nhiều người Huế làm nghề thầy lang lưu động. Một thầy lang nọ tuy còn trẻ, nhưng mát tay chữa lành cho một phú hộ. Ông phú hộ cảm ơn thầy lang bằng cách gả con cho thầy. Ông lại giúp vốn cho mở tiệm thuốc bắc. Chú rể nhờ cha vợ đặt tên cho hiệu thuốc của mình. Ông cha vợ đặt tên tiệm là "Thế Hoằng Dược Phòng". Ông giải thích cho rể đại ý là nó làm việc cứu người nên đời mở rộng ra (thế = đời; hoằng = rộng). Chú rể rất hài lòng. Khi có người khác hỏi ý nghĩa của hai chữ đó, ông cười và nói : Rể tôi là người Huế, tôi đặt hiệu tiệm Thế Hoằng là để nhắc cho nó nhớ gốc gác nó là Thằng Huế. (Trong trường hợp nầy nguyên âm "o" trong chữ "hoằng" đã được thay thế bằng nguyên âm "u" trong chữ "Huế". Đây chỉ là đọc cho thuận tai mà thôi, chớ lúc nói lái không ai nghĩ đến việc thay đỗi nguyên âm hay phụ âm, hoặc hoặc thay đổi "dấu" gì cả.

Nói lái vì tục cữ tên:

Cũng trong quyển sách trên, GS Huy còn nhắc đến một câu chuyện "nói lái" khác do tục cữ tên mà có. Ngày xưa, thời chữ nho còn thịnh, dân Việt có tục cữ tên hay còn gọi là kỵ húy. Thí sinh của các kỳ thi trước năm 1920 là những nạn nhân đầu tiên. Nếu bài làm không tránh những tên cấm kỵ thì chẳng những bị đánh rớt mà còn có thể bị các biện pháp chế tài khác. Nạn nhơn thứ hai là những người cầm bút. Và nạn nhân thứ ba là các gánh hát. Tục cữ tên ảnh hưởng sâu rộng trong dân chúng. Theo GS Huy thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách dùng tiếng lái.

Số là vào những thập niên 1940-50 có những đoàn hát bội lưu động đi hát ở các miền thuộc "Lục Tỉnh" . Trước khi đến một vùng nào thì bầu gánh phải lấy danh sách của các chức sắc nơi đó để khi hát, những diễn viên phải tránh tên trong danh sách đó hay đọc trại đi . Thí dụ tên của ông cai tổng là Nguyên thì khi hát, tất cả những chữ "nguyên" đều được đổi ra "ngươn" vì tên Nguyên phải cữ để tỏ sự kính trọng.

Có một gánh hát đến một làng nọ để hát trong dịp lể "kỳ yên." Các vị hương chức trong xã họp bàn về việc cữ tên. Hội đồng xã đồng ý là để cho tuồng hát được hay, miễn cho đoàn hát khỏi cữ tên các chức sắc, trừ tên hai anh em của hai vị hào mục tên Hòa và tên Hóa. Hai ông nầy rất hách dịch, nhứt định là đoàn hát phải cữ tên của hai ông. Nhũng người trong gánh đồng ý. Nhưng để chơi xỏ hai ông này, họ thêm một màn diễu. Trong màn nầy có hai người đối đáp, một người đóng vai lính. Người kia hỏi là trong quân ngủ, lính được ăn món gì thường xuyên. Anh lính đáp: "Hoặc ăn cà, hoặc ăn cá." "Những người lanh trí hiểu đó là câu nói lái để móc họng ông Hòa và ông Hóa đều ôm bụng cười trong khi hai ông này giận muốn hộc máu mà không làm gì được gánh hát." (Xin thưa thêm cho rõ nghĩa: hoặc ăn cà = Hòa ăn c.t; hoặc ăn cá = Hóa ăn c.t )

Tiếng lái có nghĩa riêng: Trong một video mà ông Nam Lộc và cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên là MCs (rất tiếc không nhớ video tên gì), ông Nam Lộc phỏng vấn ca sĩ Chế Linh. Ông có hỏi ca sĩ rằng hồi ở Saigòn, những người ngưỡng mộ có gọi đùa ca sĩ Chế Linh là ca sĩ "Lính Chê", ca sĩ Chế Linh có giận không? Ca sĩ Chế Linh trả lời là ông được miễn dịch (lính chê) vì là thuộc sắc tộc thiểu số Chàm, và không phiền hà gì với tên riêng đó. Tôi chắc là ông Nam Lộc cũng thừa biết là từ "lính chê" là tiếng lái của Chế Linh. Tiếng lái nầy lại trùng hợp với tình trạng quân dịch của ca sĩ Chế Linh.

Nói lái đơn giản về người, thú vật và những chuyện hằng ngày: Trong video Vân Sơn số 3, trong hài kịch Ông Ninh Ông Nang (không thấy để tên tác giả) có một phần đối đáp sau đây giữa cách hài kịch viên toàn là câu lái, rất đơn giản và rất dễ hiểu về thú vật (cá, chim, chó, mèo), về người (bà già, ông già, trẻ em, cô dâu, chú rể ) và các điều khác.

"Con cá đối nằm trên cối đá;
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ;
Chim vàng long đá tại vòng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc sạo;
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp;
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ;
Sáng sớm bà Hạt đi bán bạt hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu;
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bải tranh
Người mặc áo xanh chính là anh sáu;
Miếng thịt băm nát trong bụng bác năm
Anh chàng sức môi ngồi ăn xôi mức ;
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đủa;
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiến ai đem liệng cống;
Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng."

Đến đây đã hết những câu lái trong Video Vân Sơn, nhưng câu chót làm tôi liên tưởng đến câu lái khác cùng ý nghĩa : "Mống chuồng mọc giữa đồng chòi. Cái móng mọc ở giữ đồng bình thường như chuyện "muốn chồng" thì "đòi chồng" phải không quý vị?

Các nhà văn (hiện đã già, hoặc đã ra đi rồi) nói lái:

Trong quyển "Hơn Nửa Đời Hư" (13) ông Vuơng Hồng Sển dùng tiếng lái nhiều lần . Thí dụ "bất quá là bá quốc" (trang 465); "ủ tờ" (tiếng lái của từ ở tù, trang 477); và "mống chuồng" (tiếng lái của "muốn chồng" trang 519) v.v... Ngoài ra, ở một đoạn khác, để nhắc lại kỹ niệm chuyến Đông du thăm Đài loan và Nhật của ông và vài người bạn Pháp, cũng trong sách nầy, ông có ghi lại chuyện ở khách sạn Nhật. Ông và người bạn Pháp không quen mặc áo kimono đã để sẵn trong tủ cho khách trọ. Ông có dùng hai tiếng lái, với vẻ đùa cợt mà tôi xin miễn "thông dịch", như đã hứa; trừ gạch lằn gạch dưới hai tiếng lái là do tôi thêm, nguyên văn câu ông viết như sau:

"Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Meken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa "lù coi" đứa "lắc cọ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười" (trang 590).

Công Tử Hà Đông (CTHĐ), báo Người Việt, dùng tựa đề "Saigòn Tạp Pín Lù" (tên một cuốn sách của ông Vương Hồng Sển), để phê bình nội dung của cuốn "Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam" của ông Sển. Bài báo nầy đã kể ra nhiều tiếng lái. Có tiếng từ sách của ông Sển, đã được tác giả bài báo trích dẫn như "xe u mê":

"Xe u mê: tiếng lóng để gọi xe thổ mộ, vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục."

Có nhiều tiếng lái khác, và những tiếng đặc biệt được dùng thời tác giả CTHĐ sống ở Sàigòn. Ông đặt câu hỏi cho chính ông là: "Tại sao tôi lại không ghi lại với lời giải thích những tiếng, những hành ngữ sinh động, rung rinh âm thanh, lung linh màu sắc trong tiếng nói của dân tộc tôi, trong thời đại tôi? "

Ý kiến của ông rất hay vì những từ mà ông kể ra rất độc đáo, vì có tính cách rất là Sàigòn. Trong số những tiếng đặc biệt đó, có một số là tiếng lái như: liệng cống, dấm sủ, chai hia, chà đồ nhôm. Xin được trích dẫn sau đây cụm từ lái chà đồ nhôm, một thành ngữ lái có tính cách lịch sử, tả cảnh nghèo đói của dân Sàigòn, sau khi được phỏng dái (giải phóng), phải đem bán bất cứ vật gì có thể chôm (lấy) được trong nhà.

"Chà đồ nhôm: chôm đồ nhà, tiếng Sàigòn những năm sau 1975, ... Thời ấy Sàigòn có câu phong dao:

Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi em em nói: Đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi em em nói đi chôm đồ nhà."

Giai thoại về nói lái của Trạng Quỳnh:

Trong một số sách khác, tôi nhớ là có đọc một số chuyện vui liên quan đến "Trạng Quỳnh". Ông hay nghịch ngợm, chọc phá nhiều vị chức sắc trong triều, kể cả con vua và vua nữa. Đại ý chuyện truyền rằng một hôm nghe công chúa đi dạo ngoài thành. Trạng Quỳnh đứng đón công chúa ở gần bên một cây cầu. Khi công chúa đi ngang qua cầu thấy ông trạng nhà ta lấy chân đá nước văng tung tóe. Công chúa hỏi ông đang làm gì đó? Ông trả lời là ông đá bèo cho vui.

Nhà thơ Hồ Xuân Hương nói lái:

Tôi cũng nhớ có đọc nhiều lần trong các sách (nào đó), thơ của Hồ Xuân Hương (HXH). Nữ sĩ họ Hồ nầy là vua về thơ lái. Thơ lái của bà được ghi lại trong nhiều sách vở về văn chương Việt Nam. Gần đây đọc quyển "100 Năm Phát Triển Tiếng Việt" (9), tác giả Phụng Nghi có ghi lại bài thơ "Kiếp Tu Hành" của nữ sĩ họ Hồ:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.

Ngoài ra tôi còn nhớ vài câu sau đây của HXH: (nhưng không nhớ tựa bài thơ)

Đang cơn nắng cực chửa mưa hè
Rủ chị em ra tát nước khe…

Hoặc:

Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.

Các nhà thơ khác nói lái:

Theo sách vừa dẫn thi sĩ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế có bài thơ như sau:

Nực cổi chi ra nỗi cực lòng,
Dòng châu lai láng dĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó,
Công khó nhờ ai biết có không

Ông Huy Phương trong bài "Nói Lái Mà Chơi" cũng có ghi một bài thơ nói lái nổi tiếng khác của thi sĩ Nguyễn Khoa Vy:

Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu

(Ông Huy Phương chú thích: Na bường bát tới = mang bình bát tới, nói giọng Huế)

Ngoài ra trong bài "Nói Lái Mà Chơi" còn có một bài thơ rất hay tựa đề "Trông Trời" mà Ông Huy Phương nói không biết tác giả là ai.

"Cô kia sao cứ trông trời:
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!"

Đọc xong bài trên, các bạn có tìm thấy ý nghĩa của tiếng lái không? Nếu không xin các bạn đọc câu chú thích của ông Huy Phương. Ông có ghi rõ là bài thơ nầy muốn nói lái phải đọc theo giọng Bắc hai chữ "trông trời" = "chông chời".

Nói lái bằng câu đối:

Trong sách Miền Đất Hứa (10) anh Trà Lũ (tôi gọi anh vì Trà Lũ là bạn dạy học cùng trường với tôi trước 1975) có ghi câu đối sau đây, câu đối vừa chơi chữ cách đối vừa chơi chữ bằng cách dùng tiếng lái:

"Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi".

Khi nghe câu đối trên, anh Trà Lũ đã kêu cứu "xin các cụ giúp tôi với"? Quý bạn thừa hiểu là từ Củ Chi đầu là một địa danh gần Saigòn; củ chi thứ hai ở cuối là câu hỏi (củ nầy là củ chi vậy?) Còn từ chỉ cu vừa là một động từ, vừa là tiếng lái của cả hai từ cùng âm "củ chi". Cũng trong sách đó, ở một đoạn sau, Trà Lũ có nói rằng một số đọc giả viết thư "gà" cho anh 2 câu như sau gọi là đối lại với câu trên:

"Trai Thủ Đức thức đủ xin thủ đức" và
"Trai Bắc cực, bú c., than Bắc cực" .

Anh Trà Lũ cho là câu đối sau nghe "khiếp quá, nhưng phải viết ra trình cho các cụ chấm cho". Hai câu nầy đại khái, không được chỉnh lắm về phương diện đối. Hơn nữa chắc bạn tôi vì tính tình xề xòa nên không để ý rằng tiếng lái của "Bắc cực" là "bức c." chớ không như ông độc giả nào đó đã viết. Và nếu dùng từ "bức" thì chắc không có gì "khiếp quá" mà chỉ hơi hơi táo bạo tí thôi. Chỉ ghi nhận cho vui chớ nào dám chỉ trích bạn mình, vì tôi cũng bí như bạn. Mười năm qua rồi, trên con đường học hỏi về lái tiếu lâm, chưa tìm thấy câu nào hay hơn câu Củ chi mà bạn đã kể.

Gần đây đọc bài của Ông Nguyễn Đại Hùng thấy câu Củ Chi được ghi như sau: "Đến Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi." và câu sau ghi là:

"Về Cù Mông, còng mu em, đòi Cù Mông."

Giai thoại về nói lái để hẹn hò qua câu đối.

Gần đây hơn, vào mấy tháng đầu năm 2002, kể cả tháng bảy, đọc trong báo hằng ngày tôi thường thấy những tiếng lái, nhưng chỉ là những tiếng rời rạc, cũng vui, nhưng không lồng trong câu chuyện nào đặc biệt, nên tôi không ghi chép.

Tuy nhiên, trong một buổi tiệc sinh nhật tôi có nghe câu đối có tiếng lái. Câu chuyện rằng ở miền đồng quê sông Hậu nhân có buổi gặp gỡ của các thân hào trong làng. Trong câu chuyện qua lại, người ta nói về thời sự, đồng áng, và văn chương. Có một chàng nọ, trong câu chuyện về văn chương với một cô, đã nói:

Nguyệt lão xe tơ, chỉ vàng tốt mối

Nàng đã trả lời là:

Đế Thích nhấp chén rượu trắng tái môi

Mới nghe qua, tưởng là chuyện câu đối với các điển tích. Nhưng thực sự Nguyệt lão và Đế Thích chẳng "ăn nhậu" (liên quan) gì đến hai người nầy. Họ chỉ hẹn ngày gặp nhau mà thôi. Chàng hẹn nàng tối mốt (tốt mối). Nàng không chịu, bảo là tối mai (tái môi.)

Nói lái qua câu hò đối đáp giữa trai gái.

Miền đồng bằng sông Cửu Long, vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ. Ông Nam San có ghi lại một số câu hò có tính cách rất "tả chân" sau đây, trong đó có cả luôn câu có tiếng lái.

Nam:

Thấy em gò má ửng hồng
Phải chi em đừng mắc cỡ thì anh bồng em hun.

Hoặc:

Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú
Em cấy khum lòi vú anh muốn hun

Phe nữ đáp:
….

Phú Điền có chị Tám Hai
Thuyền quyên hò mí, đối trai anh hùng

Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cửu Long. Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối "trai anh hùng" thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng "đối trai" nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng. (Ông Nam San chú thích rằng: "Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, dòng do xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu ăn vận, đúng điệu là được.)

Giai thoại về học sinh "Văn Bình".

Trong chuyện chơi chữ của các học sinh và những nhà nho mà tôi đã đọc, thì chuyện sau đây (tôi nhớ không được rõ ràng về chi tiết và tên tuổi) nói lên sự đùa cợt bằng tiếng lái. Chuyện rằng có một nhà nho nọ văn hay, chữ tốt, thi đậu cao, nhưng không chịu ra làm quan mà chỉ về vườn vui thú việc dạy học. Có một anh học trò nọ rất hay chữ và tự cao về tài của mình. Anh ta tên là Văn Bình. Anh đi tìm nhà nho nọ để thi thố tài đối đáp của mình. Trong lúc đi trên các con đường quê quanh co, anh ta gặp một ông câu cá, anh ta hỏi thăm lối đi. Ông câu hỏi tìm gặp nhà nho làm gì? Anh sinh viên đáp là để đối đáp văn chương. Ngư ông nói nếu anh sinh viên đối được câu đối của ông thì ông sẽ dẫn đến nhà của nhà nho. Ông giao điều kiện là khi ra câu đối, ông chỉ nói ra từng chữ một và anh sinh viên phải đối lại từng chữ một. Anh sinh viên bằng lòng. Những chữ của câu đối là:

"Võ trắc đáo nam cô".

Anh sinh viên đối từng chữ là:

"Văn bình lai bắc cụ"

Vì khi đối là đối từng chữ một nên anh sinh viên không thể biết nội dung của cả câu. Khi xong, ngư ông bảo anh sinh viên đọc cả hai câu xem nghĩa là gì và giải thích cho ông nghe. Đọc lại, thấy câu đầu vô nghĩa. Nhưng đọc câu thư hai xong, Văn Bình vốn rất thông minh, biết ông câu dùng lối chơi chữ lái để nhạo anh ta. Anh ta cũng nhận ngay ra rằng chính ông câu là nhà nho mà anh đang tìm. Tôi không nhớ đoạn kết của câu chuyện nầy ra sau, và cũng không nhớ đã đọc ở sách nào.

Giai thoại Mã Qui – Qui Mã:

Phần cuối của việc trích dẫn sách, có hai tiếng lái đã thành giai thoại rất hay. Trong Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ Người Việt, Công Tử Hà Đông có viết bài Mã Qui và Qui Mã. Năm ngọ nói chuyện mã là đúng quá rồi. Tác giả cho biết là hai từ nầy và câu chuyện liên hệ là do một "cây cười nhân dân nào đó ở Hà Nội" viết ra để làm chuyện tiếu lâm. Chuyện đại ý là vào đầu thập niên 1980, kinh tế VN xuống dốc phi mã, thê thảm. Người cầm đầu đảng và nhà nước vì lo lắng quá nên đến đền Ngọc Sơn ăn chay xin thần linh báo mộng giúp biện pháp cứu nước. Hai người đều được thần báo mộng. Người đầu thấy con ngựa và con rùa, người kia thì thấy con rùa và con ngựa. Tuy vô thần, nhưng tin mộng và tin... thầy giải mộng. Hai người bèn nhờ thầy giải thích hộ. Thầy giảng rằng rùa là qui, ngựa là mã. Ông đầu thấy rùa và ngựa tức thấy qui mã, ông sau thấy ngựa và rùa tức thấy mã qui. Vậy theo điềm mộng thì thần có ý cho hai ông biết là: "muốn cứu vãn nước nhà hai ông phải qua Mĩ xin Mĩ (a) nó giúp, bao giờ Mĩ (a) nó qua nước mình thì tình hình nước mình mới khá được". Tác giả bài báo cũng có viết rằng là chuyện tiếu lâm (nói lái) nầy đã ra đời từ những năm đầu của thập niên 1980, khi chưa có dấu hiệu nào cho biết rằng Mỹ sẽ bang giao với VN. Tác giả bài báo đó viết tiếp là: "Hai mươi năm sau, chuyện mã qui qui mã thành sự thật." Chú thích (a) do tôi thêm: các từ Mĩ nầy dùng " ĩ " vì tiếng lái của qui mã = qua mĩ , và mã qui = mĩ qua).

Với những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy văn chương, văn thơ, trong sách báo hay video đều có nói lái rải rác đó đây từ Bắc chí Nam, từ quốc nội đến hải ngoại.

Những lối nói lái qua tiếu lâm truyền khẩu, hoặc được ghi chép lại.

Phần tiếp theo đây tôi sẽ ghi thêm những tiếng lái hay câu lái do tôi học hỏi hay lượm lặc trên con đường "tiếu lâm lái".

Nói lái trong câu đố:

Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được những tiếng lái đầu tiên qua các câu đố . Thí dụ các câu đố sau đây:

a) – Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (xuất vật)
b) – Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (xuất vật dụng) .
Hoặc
c) – Ghe chày chìm giữa biển đông, cái nốc nó mất cái công nó còn.(xuất vật) .

Câu a) là "cái ô"; vì cố ai = cái ô. Câu b) là cái "chân đèn"; vì "chen…đừng = chưng đèn. Câu c) là "con còng", vì "công còn = con còng.

Nói Lái tên thú vật:

Các câu sau đây nói lái về thú vật, thức ăn, địa danh, hay nói đùa cho vui:

Con ốc con nhện , con ếch con nhộng;
Con cò con sóc, con cóc con sò;
Con công con rùa, con cua con rồng;
Con cáo con bò, con cò con báo.

Hoặc: Con cá đối nằm trên cối đá;
Ông cò Lữa đứng ở cửa lò.

Bên trên trong phần trích dẫn video đã có rất nhiều tiếng lái về thú vật.

Nói lái về các loại canh: Về thức ăn, trong bữa cơm của VN thường có ba món chánh: món mặn, món xào và món canh. Sau đây là câu lái đùa về canh:

"Anh Câu Bành đánh lộn với anh Kí Banh, ông Cai Cảnh làm biên bản, giải lên ông Cai Khoanh để thụ lý." Các câu trên thật ra là tên của bốn loại canh: canh bầu, canh bí, canh cải và canh khoai.

Nói lái về các địa danh: Về địa danh chúng ta có một số câu sau đây:

Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ;
Chợ Đồng Tranh năm canh đành trông

Hoặc:

Ra Thủ Đức năm năm thức đủ
Về Giồng Trôm tháng tháng dòm trông

Hay các câu sau:

Đi chợ Búng coi chừng chúng bợ
Đến Hạ Long rát cổ họng la
Lên Bắc cạn, nghèo đành bán c.
Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Vượt sông Đuống, xuống Đông lên bắc
Trèo Đèo Ngang trong lúc đang nghèo

Ngoài ra còn có câu sau đây liên quan đến địa danh và nói lái, và có thể dùng câu nầy làm vế đầu của câu đối. Vị nào đối hay xin ban cho một câu cho đối để chuyện thêm phong phú:

"Nếu chịu Bà Chở , Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu"

"Chở" vừa là tên của một bà vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện gia thông (chuyên chở ). "Chịu Bà Chở" cũng có hai nghĩa: Thích bà có tên Chở hoặc, hoặc "đồng ý cho bà đó chở đi". Tiếng lái của chịu Bà Chở là chợ Bà Chiểu một địa danh rất quen thuộc ở vùng Sàigòn , Gia Định....

Ra chợ Bà Chiểu mua một ký Cà Ông Giặt...

Vùng Đồng Nai Cửu Long có hai câu đối rất độc đáo, và nổi danh sau đây để chỉ một chàng trai người Hốc môn, và một cô gái người Gò Công đang tình tự:

Trai Hốc Môn vừa hôn vừa móc,
Gái Gò Công vừa gồng vừa co.

Giai thoại nói lái về con Rồng Air VN:

Trước năm 1975, hàng không Air VN có dấu hiệu con rồng uốn khúc. Có một thời gian, không biết các cô tiếp viên phi hành có tư cách hống hách với khách hàng thế nào mà các vị viết báo đã cho Air VN một cái nick name để đời là Air rồng lộn. Các cô tiếp viên hóng hách cũng bị gọi là các cô rồng lộn. Tưởng một thời gian ngắn rồi mọi sự kiện sẽ bị quên lãng. Nhưng khốn nổi cứ 12 năm lại có một năm thìn, tức năm con rồng, cái nick name nầy lại được viết lại trên báo xuân, thành ra có thể nói đây là tiếng lái được các báo nhắc đến nhiều nhất, một tiếng lái để đời.

Những câu nói lái khác liên hệ đến con rồng.

Ông Đại Ngu có ghi hai câu đối sau đây:

Con Tiên Cháu Rồng, Lộn xuống hồng trần sung sướng nhỉ.
Mộng hùm thơ Rắn, Sai đâu con tạo đỡ đần cho".

Tác giả Đại Ngu có chú thích là chữ lái của "rắn sai" là "Rái săn", đọc theo giọng Hà Nội âm R thành âm D.

Ông cũng có ghi thêm về giai thoại Tú Mỡ đùa thi sĩ Ngọc Hồ như sau:

"Tú Mỡ viết bài thơ trào phúng có hai câu khá tục, chắc đã làm nữ sĩ Ngọc-Hồ phải căm giận:

Hồ tù ngán nổi con rồng lộn
Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo"

(Tôi tò mò: Có lẽ bút hiệu Đại Ngu cũng là tiếng lái?)

Nói lái bằng thơ để tuyên truyền:

Tôi nhớ, có một hôm, theo thường lệ, tôi chỉ đọc lướt qua những tựa của các bài báo. Có một tựa có tên đại khái là: "Không phải thầy tu nhưng rất thù Tây." Vì chưa đọc bài báo, nên không biết nội dung ra sao. Nhưng vì méo mó nghề nghiệp, tôi nhận ngay chữ thầy tu là tiếng lái của thù tây hay ngược lại. Chữ này làm tôi nhớ đên từ thầy tăng vì đó là tiếng lái của từ thằng tây . Số là trong thời kháng chiến chống Pháp giữa thập niên 1940, người ta truyền miệng trong dân chúng hai câu sau đây:

Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy, rồi đời thầy tăng

Nói lái để cho mật thám không biết. Họ đồn đó là hai câu sấm "Trạng Trình". Hai câu sấm nầy được truyền miệng giống như ý sấm đã bắt đầu linh nghiệm vì lúa đã mọc trên chì: Pháp cho sản xuất tiền đồng xu và cắc bạc có hình cây lúa; và cho lưu hành giấy bạc một trăm đồng có hình con voi. (Ai có tờ giấy "con voi" trong túi là dân khá giả vì một trăm đồng lúc đó bằng năm lần lương tháng của thầy giáo.)

Những giai thoại về nói lái ở VN sau 1975.

Sau năm 1975, nghe những người "vượt biên" đến HK kể những chuyện "cười ra nước mắt" để chỉ tình trạng nghèo khó của dân chúng. Một thí dụ về sự túng thiếu của giáo chức: "Giáo chức" bây giờ "dứt cháo" thôi. Một thí dụ khác về tình trạng chán nản, không muốn làm việc của các công chức, cán bộ; khi bàn cãi chuyện gì họ cứ muốn bài lui hay giữ tình trạng cũ do đó mà có danh tánh "Vũ Như Cẫn", hay "Bùi Lan" (= vẫn như cũ, hay bàn lui)

Rồi tình trạng đút lót cho được việc khi đi đến các cửa công xảy ra quá nhiều nên nhóm chữ "nguyên tắc đầu tiên" được ra đời vì điểm chánh là phải áp dụng "nguyên tắc tiền đâu" nầy thì mọi việc mới trót lọt cho. Không biết tình trạng nầy lan rộng đến mực độ nào và bây giờ tình trạng ra sao, đành mù tịt vì không thể nào polling để thăm dò được. Ngoài ra tôi còn nghe và đọc trong những bài sau đây về tình trạng nghèo đói đã nói trên:

Kỹ sư đôi lúc là cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên sáng ăn khoai

Cảnh túng quẫn của thầy giáo cũng được nhắc đến trong một bài thơ khác, trong sách vừa dẫn trên:

Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong

Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo, tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm "tốt thôi"

Về những vấn đề tổng quát hơn, có nghe những câu sau đây:

Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi;
Chiến khu tiền bạc chú khiêng rồi
Thi đua vượt chỉ, thua đi đấy,
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi

Nói lái qua những từ gốc Trung Hoa (TH), từ Hán Việt (HV), hoặc giống từ HV.

Ăn thịt mộc tồn. Một món nhậu đặc biệt của VN là món... thịt chó. Ai không ăn thịt chó được, hoặc thèm thịt chó mà không mua được, thì có món "giả cầy" thế vào, dùng giò heo, nhưng nấu theo kiểu nấu thịt chó nên gọi giả cầy. Ngày xưa, nghe nói có lúc Tây cấm ăn thịt chó. Nhưng ai đó nếu thèm quá thì cũng phải tìm cách ăn lén. Để tránh các phiền phức, họ dùng tiếng lóng để chỉ con chó. Họ gọi chó là "mộc tồn". Theo tiếng Hán Việt, mộc = cây, tồn = còn ; vậy mộc tồn = cây còn = con cầy hay con chó cũng vậy. Người ta còn dùng nhóm chữ "hạ cờ tây" để chỉ việc làm thịt chó con (cờ tây = cầy tơ). Thật là nhiều hình thức từ ngữ để tránh né... vừa vui, vừa hay quá cỡ thợ mộc. Sau nầy những từ ấy trở nên thông dụng trong nhóm "xực cẫu xíu", tiếng TH, có nghĩa ăn chó quay.

Dấm xủ. Miền Nam VN có nhiều người Việt gốc Hoa. Do đó dân ta Việt hóa nhiều tiếng TH. Thí dụ ăn chay (Quãng đông: xực chay); ăn lẩu: ăn thức ăn nhúng trong nước lèo đựng trong một cái dụng cụ nấu đặc biệt gọi là cái cù lao; gặm chí quách: gặm xương hầm, ăn cháo lòng hoặc ăn hủ tiếu để thêm dầu chá quảy v.v..

(Chú thích thêm: "dầu chá quảy", tiếng TH đọc giọng Quảng Đông có nghĩa đen là "quỷ chiên mỡ", tích truyện vợ chồng Tần Cối, đời Nhà Tống đã bị xử tử; hai vợ chồng bị trói lại và bị thả vào vạc dầu. Vì vậy chúng ta thấy cái bánh "dầu chá quảy" luôn luôn gồm có hai miếng bột chiên dính liền nhau (tượng trương cho vợ chồng Tần Cối).

Trong buổi ăn , người Tàu hay dùng một loại dấm đỏ chung với xì dầu (nước tương) làm nước chấm. Họ gọi dấm đỏ là xủ (giọng Quảng Đông) . Dân chơi tiếng lái khi vào tiệm ăn, thay vì gọi xin dấm hay xin xủ, lại gọp chung cả hai từ dấm và xủ, gọi người hầu bàn xin dấm xủ . Một người gọi, cả bàn cười vì tiếng lái đó (dấm xủ = dú xẩm đọc theo giọng Nam của tiếng vú xẩm). Lẽ dĩ nhiên anh hầu bàn người Tàu cũng cười theo khách hàng cho vui nhưng chưa chắc đã hiểu tiếng lái đùa cợt đó, (hay hiểu và thích cũng không biết được, vì anh TH mà thích dấm xủ là chuyện thường rồi vì là món ăn hàng ngày của "ngộ" mà, không thích sao được).

Trà Thái Đức. Ngoài ra, những từ Hán Việt quen thuộc có nhan nhản trên các báo là tên các tiệm thuốc Bắc, thuốc chế từ các loại dược thảo TH, hay tên của các loại dược thảo được bày bán, (khác với thuốc Nam là các loại dược thảo có sẳn ở VN thuộc loại "cây nhà lá vườn" dễ kiếm hơn), và tên của các loại trà v.v... Nước trà nào cũng có tính cách nhuận tiểu. Uống trà nhiều vào buổi chiều, đêm thường khó ngủ, có thể vì trong trà có cafein làm mất ngủ, nhưng cũng vì phải thức dậy nhiều lần để đi tiểu.Vì vậy dân nói lái khi nghe mời dùng trà ngon thường hỏi nhau là trà nầy có phải là trà Thái Đức không, hỏi xong, chủ khách cười xòa (thái đức = thức đái). Vào buổi sáng, đến tiệm ăn tiệm xâm, thưởng thức "xíu mại" và xì dầu pha dấm xủ, và uống trà thái đức thì tuyệt rồi còn gì bằng. Chỉ một vài tiếng lái thôi mà không khí buổi điểm tâm vui nhộn lên.

Phú hộ hà tiện (tiếng nói lái giống tiếng HV) Có câu chuyện khác, rằng có một phú ông họ Tạ kia tuy giàu tiền, nhưng ít chữ nghĩa. Đầu ông ta hói, và nổi tiếng là hà tiện... từng xu. Tết đến, ông ra chợ nhờ cụ đồ nho viết câu đối trên giấy đỏ để treo ở nhà. Cụ đồ đề nghị viết chữ "họa" giống như vẽ cho đẹp và đề ra giá công viết là một đồng. Phú ông kỳ kèo trả giá năm cắc thôi. Ông đồ chịu và viết cho 2 câu sau đây:

Hiền Tạ Thu Sương tâm tắc kiết;
Thiên Tường tác biệt thị Châu đài.

Ông đồ giải thích đại khái là bà phú hộ tên Thu Sương, còn ông tên Tường. Họ Tạ hiền hậu, bà nhà có tấm lòng tốt (kiết). Còn ông nhờ trời (thiên) ban cho cách riêng nên giàu có như con cháu nhà Châu thời xưa. Ông phú hộ nghe xuôi tai, vui vẻ trả năm cắc và đem tấm giấy đỏ về dán trước cửa. Một hôm bạn ông, một người giỏi chữ nho, ghé thăm. Phú ông khoe câu đối. Bạn của phú ông đọc lui đọc tới hai câu trên, thấy chẳng có nghĩa gì cả. Sau một lúc ông ta phá lên cười vì ông phú hộ đã bị ông đồ nho chơi xỏ. Hai câu trên chẳng phải chữ nho với điển tích gì cả mà chỉ là hai câu gồm một số từ tiếng lái và một số không phải tiếng lái, viết ra như sau :

Hà tiện thương xu, tâm tiếc cắc (tâm tiếc từng cắc bạc)
Thương tiền, tiếc bạc thị chai đầu (chỉ đầu hói)

Phú ông nghe câu giải thích mới, xé câu đối và chắc lưởi hít hà, vừa rủa cụ đồ, vừa tiếc đã mất năm cắc, nên quên mời ông bạn vào nhà xơi ... "nước mát"

Bà góa kén chồng. Thêm vào kho tàng HV kiểu truyền khẩu nầy, còn có câu chuyện sau đây: Chuyện một bà góa, giỏi chữ nho, đăng bảng tìm chồng. Chuyện rằng bà thuộc loại "nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương" (Kiều). Sau ba năm để tang chồng, tròn đạo phu thê, bà bắn tiếng là bà có ý mống chuồng. Bà cho biết sẽ chọn ông nào biết nói lái hay nhất bằng cách dùng câu đối, có vẻ như chữ nho. Bà đưa câu chuyện nói lái của ông phú hộ bên trên làm ví dụ. Bà còn nói rõ hơn là phải diễn tả được tình cảnh của bà trong ba năm để tang chồng. Đề tài thật rắc rối và hóc búa thật sự. Nhưng vì bà đẹp quá nên rất nhiều nhân tài nộp bài. Sau khi chấm xong bà lựa được hai bài, vừa có tiếng lái, vừa có vẻ như chữ nho, vừa tả một phần đời bà, để cho vào chung kết.

Bài thi chung kết đầu chỉ có hai câu như sau:

Bách nhật bách không vô cụ đặc
Băm na đổ lễ, chẩm ai đăng.

Bài thi thứ hai, vừa có câu đối, vừa là bài thơ song thất lục bát:

Gái quốc sắc, cao môn "dũ đệ"
Trai anh hùng, tứ hải "đại du"
Nhìn em đã thấy căng tu
Mống chuồng chỉ nhận (người có) cốt tu làm chồng.

Cả hai được chấm đậu viết. Nhưng sau phần thực hành, trong vòng 2 tuần liên tiếp bà loại ông có hai câu đối ngắn, vì không tả đúng tình trạng thật của bà, và vì thực hành kém quá. Ông ấy nói "ba năm để lỗ chẳng ai đâm" (= chẳng ai đăm) là sai vì thât sự trong ba năm đó bà có cho... "đâm" lai rai. Bà thành thật thú nhận như vậy. Và do đó bà chọn ông thứ hai. Chẳng những ông đã nói đúng những gì bà có (nhà ở tuy thuộc loại kín cổng nhưng quá còn son nên dễ sa ngã, có kiếm chác chút chút). Ông còn tả bà đẹp và hấp dẫn (nhìn bà ông đã thấy "căng tu"). Ngoài ra ông sau còn nói rất đúng về những gì ông có. Ông thứ hai nầy đúng là " trai anh hùng tứ hải ..đ. dai dẳng, và cũng hiền lành có c. tốt đúng như ông đã nói. Bà chịu làm đám cưới với ông thứ hai nầy.

Giai nhân và anh hùng. Tôi nhớ hai câu khác, cũng có vẻ là chữ Hán Việt, để chỉ một sự thật của con người: dầu nam hay nữ cũng phải ngủm cù tèo, hay về chầu Diêm chúa nếu "chuyện đó" không thông. Hai câu đó mới ghi được cách đây độ 5 năm:

Giai nhân tái đắc, giai nhân tử;
Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu

Nghe thật là đầy chữ nho, phải không các bạn? Câu đối tuy có vẻ không chỉnh nhưng nghe hay hay vì có dùng vài từ Hán Việt nghe kêu quá. Các bạn tìm được những từ nói lái trong hai câu trên chưa? Nếu chưa tôi đành viết lại hai câu trên:

Gian nhân tắc đái giai nhân chết;
Anh hùng không đái, anh hùng tiêu (đời).

Một vài chuyện nói lái của bằng hữu và thầy, xa xưa và hiện tại.

Ngày xưa, khi tôi còn là sinh viên Văn Khoa, trong lớp Văn Minh Việt Nam, có một giáo sư dạy về những nét đặc biệt của tiếng Việt và những thú vui ở đồng bằng Cửu long - Đồng nai. Trong khi chuyện trò ngoài giờ học, Thầy có bàn thêm về những từ đặc biệt có nhiều nghĩa do cách dùng sai, vô ý, hay cố ý . Thí dụ từ "khốn nạn" nguyên ngữ Hán Việt là khó khăn. Nhưng dân "miệt vườn" lại dùng từ đó như là một tiếng mạt sát thậm tệ.

Sinh viên nói lái. Có một sinh viên (tôi quên tên) nói đùa: Hồi còn nhỏ anh ta bị các thầy giáo cho là anh "cù lần". Lớn lên thi mãi không đậu tú tài, chắc đúng là vì "cù lần" thật sự. Cha anh bảo cưới vợ làm ăn. Sau khi cưới được vợ rồi, anh tưởng là hết "cù lần" nào ngờ anh vẫn "cù lần" như thường, nhưng lại thi đậu tú tài. Thầy nói ngay: "đáng mừng, đáng mừng, sinh viên biết chơi chữ với thầy". Các bạn có biết anh sinh viên nọ nói gì không? Cù lần có nghĩa là lôi thôi, kém thông minh. Nhưng cù lần (có gạch dưới) của anh sinh viên nọ, có nghĩa đôi, vừa là ít thông minh, vừa là tiếng lái (cần l. ) đấy các bạn ạ. Và cha anh đã giúp anh giải quyết vấn đề thi rớt qua kinh nghiêm của riêng ông bằng cách giải quyết vấn đề tâm sinh lý của con ông qua việc cưới vợ cho con.

Một sinh viên khác, người gốc Bạc liêu, cũng góp vui vào câu chuyện. Anh ta nói: Còn em, Thầy biết không, lúc vừa xong lớp đệ nhị, em đã bỏ học hoang chơi lêu lổng. Em đã có những quyết định lầm lộn và xài phí gần hết nửa gia tài của cha mẹ để lại. Càng lớn em càng lộn lầm tiêu phí gần hết phần của cải còn lại, kế bị đi lính, vào học trường sĩ quan Thủ Đức. Nhờ đi lính em mới xác nhận thêm rằng đa số đàn ông, kể cả các ông sĩ quan cấp cao đều lộn lầm như em nên thường bị đàn bà sai biểu. Thầy cười, và nói: đó là cái bệnh chung của một số lớn đàn ông, anh đừng "buồn". Cả nhóm cười rộ. Lại một anh học trò chơi chữ tiếng lái nữa đấy các bạn ạ.

Đồng nghiệp (dạy học) nói lái. Viết đến đây tôi lại nhớ tới các thầy cũ và các bạn khác của tôi. Tôi nhớ một bạn cũ, giờ còn ở Saigòn. Vào tháng tư năm 1975, có một buổi họp ở trường về vấn đề thi cử. Trong lúc bên ngoài tình thế (chính trị, quân sự) có vẻ lộn xộn, bên trong phòng họp vì người chủ tọa chưa đến, nên anh em (đa số là giáo chức) nói chuyện khào về những tin "lạc dừa" (tin đồn) về chuyện evacuation những người làm việc sở Mỹ. Cạnh tôi có một anh bạn vốn là người đã du học Mỹ về. Anh ta có vẻ chán nghề giáo vì nghe nói đã có lần xô xát với thí sinh sau kỳ thi, vì thí sinh gian lận bài thi và anh bắt gặp. Tôi hỏi anh có tính gì về chuyện "tương lai" không (một câu hỏi "mập mờ" nhưng ở thời điểm đó ai cũng hiểu là chuyện di tản). Anh trả lời là sẽ xin về hưu, hoặc xuất gia nếu không "đi được". Làm sao sống nếu không có tiền hưu, tôi hỏi. Anh không trả lời, mặt rất bình thản. Anh viết hai câu thơ trên giấy đưa cho tôi đọc:

"Nếu về hưu, tao sẽ làm những chuyện sau đây:

Sáng lặc cỏ, chiều lặc cau;
Độn lầy, khai giếng tưới hành rau"

Tôi bật cười chưa kịp nói gì thì thấy anh ta lại viết thêm một bài thơ nữa, và cũng đưa cho tôi đọc.

"Nếu đi tu tao, thật sự tao không biết theo đạo nào, chắc là theo đạo Dụ quá, nhưng không biết có đủ sức để theo không? Nếu theo đạo nầy:

Ngày thì công ngủ tối công phu,
Kinh kệ, làm tương phải kiếm lu
Mấy cô nho nhỏ đang mù đợi,
Mấy lão sồn sồn sẽ đạo tu"

Lúc đó tôi sững sờ thât sự. Thứ nhất vì không dè anh chàng có vẻ đạo mạo, lại có thể viết hai câu đầu với một ít tiếng lái có vẻ "hơi tục", trong khi bốn câu sau và cái đạo của anh thì "tục" quá chỗ chê rồi. Thứ hai, tôi không biết anh đang nghĩ gì trong đầu, vì hầu hết, tuy không nói ra, nhưng ở thời điểm đó, ai cũng có vẻ lo lắng, trong lúc anh lại có vẻ tỉnh bơ, lại còn làm thơ kiểu đùa giỡn nầy được thì ... tài quá. Dân nói lái khi nghe những câu có vần "u", "ù" hay "ôn", "ồn" "ộn" thì biết ngay là người nói hay người viết đang xài tiếng lái tục. Tôi xin miễn việc "diễn giải" hai bài thơ trên, xin các bạn tự tìm hiểu lấy cho vui. (Thời gian đã chứng minh anh bạn nọ có tài thật. Anh không vượt biên đi ra nước ngoài, ở Sàigòn tiếp tục chịu đựng một số năm đầy nghèo khó và sau nầy vươn lên bằng cách mở lớp Anh văn, và tiếp tục sống .. tỉnh bơ không hề than vãn, hay nhờ vả bạn bè chút gì cả. )

Thầy (dạy trung học) nói lái. Bài thơ trên khiến tôi nhớ tới một giáo sư Pháp văn hồi tôi còn học lớp đệ ngũ. Tôi không biết anh bạn trên có phải là học trò của ông giáo nầy không, vì trong bài thơ của anh ta có một vài từ giống trong bài thơ của ông thầy mà tôi đang nói. Tuy ông đã tốt nghiệp từ chương trình Tây và dạy tiếng Tây nhưng ông lại thích nói đến những cái "rắc rối, nhưng phong phú" của tiếng Việt, trong đó có lối nói lái . Ông nổi tiếng là ông thầy lè phè, dễ tánh, nhưng lại dạy học rất có duyên và học sinh rất thích. Sau đây là bài thơ tôi nhớ lại và ghi ra. Đúng nguyên văn hay không, không chắc, cũng như tất cả các câu khác, nhớ sao ghi vậy. Bạn nào có học với thầy và có nghe về bài thơ nầy xin bổ túc hay sửa chỗ trật. Đa tạ.

Có cô nho nhỏ đó học trèo
Trèo lên hòn đá, đá chẳng leo
Sương sa lác đác, mù mù đợi
Trăng xế đầu non, đới đới cheo.

Cũng như hai bài trên, tôi xin cáo lỗi, không có gạch dưới những từ có thể thành chữ lái. Các bạn tự tìm lấy và tự lái cho vui. Nhưng cũng xin cho chìa khóa rằng đây là loại lái dùng ba từ liên tiếp.

Cô giáo nói lái. Nói tới thầy giáo, phải nhắc tới cô giáo cho công bằng. Chuyện rằng có bà giáo nọ có tật là hay dùng tiếng lái khi bà sợ hãi điều gì. Tiếng lái của bà chỉ liên quan đến thực tế, và không có gì gọi là "khó nghe" hay tục cả. Bà giáo chỉ có một người con trai. Bà dạy con rất cẩn thận. Tuy con đã mười lăm tuổi rồi mà đi đâu bà giáo cũng đi kèm theo, và luôn giáo dục con trong mọi trường hợp. Bà sợ nhất là nó gây lộn và đánh nhau với bọn du đãng.

Một hôm bà dẫn con vào quán ăn cơm trưa. Trong lúc đang ăn uống, bàn bên cạnh có tiếng cãi cọ. Một anh ăn mặc có vẻ con nhà giàu, đang sừng sộ với một anh khác và có vẻ như sắp đánh nhau. Con bà nói rằng anh đầu tiên là bạn học của nó. Khi thấy con bà nhỏm dậy, có vẻ muốn sang bàn bên kia, bà giáo cảm thấy không an tâm. Bà không muốn con dính líu tới chuyện gây gổ. Bà nói với con: Con ơi, con

Đói nừng, đỏi kê, tháo sây, ngây vẹ
Náng làm tò, nết có chó, đới cái đàn
Ảo nhà gì, lách phàm, thét mà gấy

Con trai bà nghe bà nói một hơi, mặt bà lại có vẻ giận và lo, nó ngồi yên. Khi việc cãi cọ chấm đứt, và các anh kia đã đi khuất, bà khen con bà: Con biết nghe lời má như vậy má chịu lắm đó; con ngoan như vậy, đáng khen lắm. Con bà trả lời: Thiệt ra con chẳng hiểu má nói gì cả nên con ngồi yên. Té ra con bà ấy, như một số các bạn đang đọc bài nầy, nếu nghe bà nói một hơi các câu như vậy chắc cũng không đoán ngay ra bà muốn nói gì. Bà ấy đã nói: Con ơi, con...

Đừng nói, để coi, thấy sao, nghe vậy
Nó làm tàng, nó có chết, đáng cái đời
Ỷ nhà giàu, làm phách, thấy mà ghét.

Con bà hỏi sao không nói như bình thường mà lại dùng tiếng lái. Bà trả lời là sợ chúng nghe được lại gây gổ luôn tới mình thì mệt lắm, nên nói tránh cho "chắc ý" (và tưởng rằng con bà hiểu).

Lão ông, lão bà nói lái trong bàn tiệc. Không phải chỉ có bà giáo vừa nói biết tiếng lái. Tôi có chứng kiến hai bà và một số các ông dùng tiếng lái một cách khá bạo mồm trong một trường hợp khá vui. Trong một bữa tiệc của một hội đoàn cách đây hai năm, sau phần ăn có phần văn nghệ "cây nhà lá vườn". Bàn chúng tôi và vài bàn bên cạnh gồm toàn những người trên 60 tuổi, mặc đầu các bàn khác số trung niên (40-50 tuổi) rất đông. Khi MC mời các "bạn già" lên trình diễn, các bàn lão nhân của chúng tôi khá xôn xao. Có nhiều ông tính lên giúp vui.. Sự bàn tính cũng khá sôi nổi, vì cũng có vài bà đòi lên sân khấu. Vài bà khuyến khích, cổ võ. Vài bà lên tiếng cản. Một bà nói hơi to tiếng khi can ông chồng không cho lên: "Thôi mà, già rồi lên đó làm chi". Ông ấy phân trần với mọi người trong bàn, và những người ngồi gần (thuộc bàn khác) bằng cách đọc to bài thơ:

Sao em cứ bảo anh già,
Làm anh chẳng biết anh già ở đâu
Anh già cái tóc cái râu,
Nhưng riêng "cái ấy" còn lâu mới già

Nhóm lão nhân cười rộ. Bà ấy nguýt ông và nói rằng "ông già mà không nên nết." Một ông khác bênh vực: bà đã nghĩ chủ quan rồi, vì "cái ấy" mà chồng bà muốn nói là cái "tinh thần trẻ trung, hát hay không bằng hay hát" đấy. Nhưng bà ta cũng không vừa. Bà nói rằng: Tôi biết nhà tôi quá mà, ổng thuộc loại "Chung Vô Diệm" rồi nên nếu giải thích "cái ấy" theo cách của ông anh như vậy là sai bét. Một ông khác lên tiếng: Cha chả ai bảo các bà không nói lái? Bà trên quay sang ông sau cùng: Nói vậy ông anh cũng rành tiếng lái quá hén, ông anh thuộc loại lái hay lái giỏi đó. Ông sau sau cùng nói: Dạ không dám nhận lời khen của chị vì tôi còn thuộc lại lái dở thôi. Ông chồng của bà ấy lên tiếng: Ông anh ơi, nói lái vòng quanh với các bà, người ta gọi là lái gió không hay đâu, phải dám nói thẳng như trong bài thơ của ai đó, mà tôi vừa đọc, mới hay.

Câu chuyện xảy ra nhanh như vậy và đa số những người trong các bàn của nhóm già cười rộ lên. Nhưng có một vài bà có vẻ làm nghiêm, không cười (có thể các bà không hiểu hay chưa nghĩ ra ý của tiếng lái chăng? Hay là hiểu nhưng vẫn làm nghiêm?).

Một bà không cười, với vẻ mặt tỉnh bơ hỏi bà đầu tiên: Chị nói ảnh thuộc loại Chung Vô Diệm là nghĩa làm sao tôi không rõ. Số đông lại cười rộ lên. (Trong truyện Tàu, Chung Vô Diệm là người đàn bà xấu xí, nhưng nhờ giỏi võ nghệ, giúp vua dẹp loạn và được sắc phong hoàng hậu. Mới nghe rõ ràng chẳng dính líu gì tới cái ông đọc thơ). Bà vợ của ông đọc thơ cũng trả lời tỉnh bơ: Chị ơi "Chung Vô Diệm" là "chim vô dụng" đấy. Nhà tôi bảo "cái ấy" của ảnh còn lâu mới già là nói dóc. Cả hai bàn lại cười rộ. Một bà khác lại chen vào: nếu ông nhà bà ở tình trạng không "dụ cưng" được và vô dụng như vậy sao ông nhà cứ đòi "lên" ...ca hoài vậy. Bà đầu tiên cười to trả lời không cần suy nghĩ, và không tỏ chút e thẹn gì cả: Tuy thuộc loại họ Chung nhưng nhờ có đọc sách nói về các hoạn quan trong cung nên biết áp dụng phương pháp sường cho sớ để sống qua ngày. Rồi bà thấp giọng một chút, như có vẻ e dè: Thú thật đôi khi nhà tôi có theo phương pháp cổ truyền mà giới trẻ hay dùng là hướng và bướng. Một bà khác ngồi cạnh giải thích thêm: Bà ấy muốn nói hướng cho sôn và bướng cho sú đấy. Cả nhóm lại cười rộ lên, và còn có vài tiếng phê bình "tài thiệt, gan thiệt" chen vào.

Ai dám nghĩ rằng các lảo bà và lão ông không chơi chữ lái phải không quí vị? Trong trường hợp nầy tôi thấy các lão ông nói chữ kém xa các lão bà.

Những chuyện nói lái "cách sông"

Với những câu chuyện nói lái vừa kể, tôi cứ tưởng là tôi biết nhiều về nói lái. Nhưng trẻ khôn qua, già lú lại. Tôi tình cờ đã nghe và học thêm những tiếng lái bất ngờ, chẳng có gì cao xa hay đặc biệt, nhưng những tiếng lái ấy mới đối với tôi, hoặc những tiếng đó là tiếng tôi đã biết, nhưng ít dùng tới, nên khi nghe lại thấy hay hay.

Nước bất hiếu. Số là một hôm, bước chân vào một tiệm ăn, vừa kêu xong thức ăn thì tôi nghe một em trai độ 18 tuổi kêu anh chạy bàn, cũng nhỏ tuổi như anh kia, gọi một tô tái nạm và một ly nước "bất hiếu." Cha chả, nước gì mà tên ngộ vậy, tôi tự hỏi. Và vì thói quen khi nghe ai chơi chữ là tôi nghi ngay là đang chơi tiếng lái. Nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra. Khi ly nước được đem tới bàn, tôi nhìn qua xem, rõ ràng là nước đá chanh. Cái lý tại sao anh chạy bàn biết và đem ra đúng thì không lạ vì chắc chắn là họ biết code của nhau rồi. Cái lạ là tại sao hắn gọi là nước "bất hiếu". Phải khi ăn xong tô phở tôi mới nghĩ ra và bắt đầu cười cho cái chậm hiểu của mình. Các bạn có biết không, thật đơn giản. Đá chanh là tiếng lái của đánh cha. Con mà đánh cha là con bất hiếu. Nhóm trẻ đó đã chơi tiếng lái xa hơn một bực nữa, dùng cả lời phê của một hành động để chơi chữ.

Nói lái cách sông. Trong một bữa "pot luck" của một nhóm sinh viên trẻ thuộc thế hệ 1.5, mà tôi gọi là thế hệ ba rọi vì các em nói tiếng Anh chêm thêm vài tiếng Việt, hoặc ngược lại. Tới phần văn nghệ văn gừng, ban tổ chức yêu cầu một người "lớn tuổi" lên kể chuyện vui. Trong nhóm chỉ có một ít người lớn tuổi. Một người bạn tôi, ngoài sáu mươi, than nho nhỏ với tôi: hết sách rồi, chưa tìm ra được chuyện gì mới cả. Tôi rỉ tai trở lại: câu giờ bằng cách yêu cầu một sinh viên kể chuyện trước; và sau đó, nếu cùng lắm, đành mở sách "dạy tiếng Việt" vì trong nhóm nầy, theo chỗ tôi biết, thì chỉ có một vài em biết sách đó mà thôi.

Bạn tôi đứng lên thách thức các sinh viên rằng anh chị nào lên nói một chuyện cười gì hay, mà phải dùng toàn tiếng Việt, không được pha tiếng Anh thì ông mới lên kể chuyện. Các sinh viên đồng ý.

Hai MCs, một nam, một nữ giới thiệu một "mầm non" chuyên kể chuyện cười lên "sân khấu". Chuyên viên cười nầy liền giới thiệu: Sau đây xin các bạn cho một tràng pháo tay cho ban nhạc, toàn những nam nhạc sĩ, đó là ban nhạc "Thuyền xưa" do nhạc sĩ Tô v. Cừ , biệt danh C.T., làm nhạc trưởng. Ban nhạc nầy do ca sĩ Tô Mộng Lan , biệt danh LMT làm bầu gánh. Nhạc sĩ CT đã từng đóng phim chung với nữ tài tử Hồng Kông, "Điệp Liên Tú". Còn Bầu Gánh LMT cũng đã từng đóng phim bộ với nam tài tử Đài Loan, "Đặng Lăng Nhu". Tiếng vỗ tay và tiếng cười vang động. Anh "mầm non" tiếp theo: Xin giới thiệu giọng oanh vàng của nữ ca sĩ Thu Cương và giọng trầm ấm của nam ca sĩ Thu Đạm trong bản "Em nấu nướng Anh." Và cầu chuyện cười đến đây chấm dứt. Không thấy ai lên sân khấu, không thấy ai đờn trống gì cả.

Chưa nghe hát tiếng nào mà chúng nó vỗ tay như pháo và cười bò lăn. Tôi biết ngay là chúng nó đang nói lái qua tên của hai sinh viên mà các em gọi là "ca sĩ".

NHP


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - aydada - 17-03-2011

hix, hvn huynh để dài quá đọc k hết >"<
sao huynh không chia làm nhiều post cho dễ đọc ạ


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - hvn - 17-03-2011

(17-03-2011, 09:35 PM)aydada Đã viết: hix, hvn huynh để dài quá đọc k hết >"<
sao huynh không chia làm nhiều post cho dễ đọc ạ

Mấy cái này phải đọc liền 1 phát mới sướng chứ, tách ra những kẻ đê tiện lại bảo mình câu post big green


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - lanhdien - 01-10-2011

Đây!

Lại Hối của cụ Lãng Nhân

Lại Hối

Hòa vừa gõ cửa thì Sinh đã ra mở, niềm nở mời vào phòng khách, giới thiệu với các bạn:
- Đây bác Hòa là một nhà thâm nho. Và đây, bác Đoàn ưa khảo sát về từ ngữ, bác Đằng thích khám phá về sắc dục, bác Dương thạo về phân tâm học, chúng tôi mời bác Hòa đến là chân thứ năm trong hội "Lại Hối".

- Làm chân thứ Năm thì tôi e khập khiễng, vì tôi…già rồi. Hơn nữa hội có năm chân, có lẽ cũng hơi vắng vẻ Châu Trần. Vả lại, tôi chưa hiểu cái tên hội mang nghĩa gì. Lại Hối, việc gì phải hối? Tội cam vạ đáng gì? Đã hối rồi là đủ, sao đến nỗi phải "Lại Hối"? Mà hội với hè đã xin phép chưa? Vớ vẩn không khéo lại tù cả nút…

- Bác yên trí, Sinh đáp. Hội này không phải xin phép, cũng không phải hội kín, chính quyền có dòm ngó tới thì cũng đến cười xòa, có lẽ lại còn khen mình là có công bảo vệ thuần phong mỹ tục nữa là khác. Còn bác bảo số hội viên thưa thớt, xin bác biết cho rằng nhiều chính đảng chỉ có một hội viên vừa làm lãnh tụ vừa làm ủy ban tổ chức, ủy ban vận động, mà cũng kiến nghị kiến nghiếc ầm ầm, có sao đâu! Nhưng tôi xin vào đề ngay để bác khỏi áy náy. Bác là người thông kim bác cổ, hẳn cũng nhận với chúng tôi rằng tiếng ta vẫn mang tiếng là nghèo, chúng ta có nhiệm vụ làm cho phong phú thêm lên. Chúng tôi nghĩ ta sẵn có phương pháp nói lái, một phương pháp đầy màu sắc dân tộc mà ít khi được bà con áp dụng, thì nay đem khuếch trương nó ra, cũng là một cách làm giàu cho ngôn ngữ, vì câu nói lái đột nhiên hàm một ý nghĩa khác hẳn nguyên văn. Như Lại Hối mà chúng ta đang thành lập đây, không phải là ăn năn sám hối nữa, vì lái lại nó sẽ thành Hội Lái, tức là hội những người nói lái.

Dương nói:
- Theo chủ trương của Freud, lời nói của ta phải qua ba phòng: từ phòng ý thức, qua phòng tiềm thức, tới phòng kiểm duyệt, rồi mới phát thanh ra. Nói lái tức là nói ra những tiếng có liên quan đến sắc dục chẳng hạn, mà ý thức và tiềm thức thấy là khó diễn tả được toạc móng heo, thì phòng kiểm duyệt sẽ soát lại và thay đổi cho khỏi "công xúc tu sĩ" trước khi cho nói ra. Ấy là cái nghĩa bảo vệ mỹ tục mà bác Sinh vừa nêu lên đấy.

Hòa cười hà hà:
- Tưởng kín hay hở thì ký nhi viễn chinh, chứ hội lái tôi sợ gì mà dam khống. Và tôi lại đề nghị với các bác bầu Hồ Xuân Hương làm chủ tịch danh dự, với hai phó chủ tịch danh dự là trạng Quỳnh và Yên Đổ. Là vì ai cũng đã biết cái tài nói lái của ba vị ấy. Xuân Hương đã diễu:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Bè từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo

Trạng Quỳnh cám ơn cô hàng nước đã cho bánh dầy:
Đang khi nắng cực đói lòng thay
Giả ơn chị tú lại cho dầy
Bây giờ biết lấy chi mà tạ
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Còn Yên Đổ mừng một ông thợ kèn hai chữ "Đại hạ" lấy cái nghĩa đen là hè to, lái lại thành tò he, rõ ra tiếng kèn. Và khi Ông Ích Khiêm làm đền ở Hà Nội để kỷ công những binh sĩ trong Trung ra bị chết trận ngoài Bắc, sai người đến xin mấy chữ để đề ngoài cổng đền, người này có vẻ tự đắc kể lể "quan tiễu muốn làm đền cho lính tôi", Yên Đỗ đòi ba nén bạc và cho ba chữ "Tối linh từ". Ông Ích Khiêm bất bình vì tiền nhuận bút đắt thế mà ba chữ lại quá ư tầm thường, có biết đâu cụ tam nguyên đã dùng lối nói lái: tối linh là lính tôi, cho bõ ghét cái anh tay sai hách xằng.

Sinh tiếp:
- Vâng, bầu các vị ấy vào ghế danh dự là xứng đáng lắm. Nay xin bàn đến một vài quy luật mà chúng ta sẽ ấn định cho Lại Hối. Tôi thấy trong các câu đố của ta, có lối đố tục giảng thanh như:
Xưa kia em trắng như ngà
Bởi chưng ngủ lắm nên là em thâm
Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi rửa sạch, chàng nằm lên trên.

Giảng là cái chiếu! Lại có lối đố thanh giảng tục, như: "Đầu làng đánh trống, cuối làng phất cờ, trống đánh đến đâu, cờ phất đến đấy" giảng là con chó vừa vẫy đuôi vừa sủa. Vậy tôi tưởng ta cũng nên phân biệt hai lối trong khoa nói lái: ý tục lái thanh, ý thanh lái tục.

- Nên lắm chứ. Đoàn góp ý. Ta có thể xếp vào loại ý tục lái thanh những câu chẳng hạn như: đái dầm lái ra dấm đài, răng mái hiên ra răng hiền mai (nếu ta thuộc vào hạng này, ta cũng nên để ý tới người nào đối thoại với mình mỗi lần lại kính cẩn thưa ông rằng vì biết đâu trong đó chẳng ẩn cái ý răng ông thừa). Bà kia tấm lưng sàm sạp như cánh phản có khi ngơ ngác không hiểu sao có người lại gọi mình là phán Cảnh. Hai ông thanh niên nói nhỏ với nhau: cô điếm nọ hay đi đường Ca-ti-na (đường Đồng Khởi bây giờ) bắt cọp, ta chớ tưởng là cô có thừa can đảm, vì nếu đọc chữ bắt là bắc cho hợp thủy thổ, thì mục tiêu của cô gái có đặt đâu vào chúa sơn lâm! Mấy cô bán hàng rong tụ ở một vỉa hè cấm đỗ, hễ trông thấy bóng cảnh sát là rủ nhau vác chày mà lộn, cảnh sát nếu nghe biết được, có lẽ sẽ hiểu lầm đó là một chưởng siêu việt của môn phái võ lâm nào, chứ không ngờ là một lối khinh công rất thường mà những cô cẳng dài luyện không thấy mệt.

Hòa thêm:
- Về lối ý tục giảng thanh, tôi nhớ một câu đối thật tài tình: "Tuổi gần sáu chục chưa đeo kính; Thức suốt năm canh chỉ sợ gà" lời nghe tự nhiên và có lý, sợ gà vì nó gáy sáng thì tan cuộc, nhưng lái lại, ta sẽ nhớ ngay đến câu ngày trông quan lớn như thần, đến đêm quan lớn tần mần như ma! Lại có người ra vế đối nam đáo nữ phòng: thạch bất truy, không ai hiểu thạch bất truy thủ nghĩa gì, sau tác giả mới nói: thạch bất truy là đá chẳng theo! Ấy là đổi tục ra thanh, chưa thấy đủ thanh, lại dịch nghĩa đen ra chữ Hán nữa cho bí hiểm. Tức như cái kiểu Đại hạ của Yên Đổ trên kia và những chữ mộc tồn: cây còn con cầy; - quần thần: bầy tôi: bồi tây; Đại điểm: chấm to: chó Tâm… mà chúng ta vẫn lấy làm khoái trá mỗi khi nghe kể lại.

Dương cười:
- Theo tôi, ý tục lái thanh không thông dụng bằng ý thanh lái tục. Tôi xin kể mấy thí dụ: cụ trong dân là một tiếng tôn xưng trang trọng, nhưng lái lại, e mất vệ sinh. Đại sứ là chức vị lớn, ai nỡ lái cho thành một tác động có thể bị phạt vi cảnh nếu diễn ra ngoài đường. Chính phủ mà lái thành ra chú phỉnh thì mang lỗi vu cáo cho những chính quyền không mị dân. Bảo bà Cố mắc tội vu khống thì lại phủ nhận tác dụng của nhựa cây hê-vê-a loại "mút" mà giới phụ nữ đua nhau sử dụng. Báo hay nói đến ông Ráp Thập là bậc anh tài thành thạo về máy nước cột đèn, nếu lái lại ông Thấp Rạp thạo về đén nước cột mày, ông sẽ hét lên tùm lum, dù mấy chữ chẳng có nghĩa gì cả. Ông Xuân Quảng ai nỡ lái là Quang xuẩn, mà bảo ông ấy đòi nồi thịt dim là dìm nồi thịt đoi thì cũng tội nghiệp. Câu tường thuật trong báo bà dân biểu tấn công, cụ chủ rung chuông, nghe thật hiền lành vô tội, ta cũng chẳng nên gán cho nó cái nghĩa rất oan uổng cho cả hai "nạn nhân": bà riêu bẩn cống tân, chuộng chủ rung cu!

Đoàn tiếp:
- Ý thanh lái tục kể cũng ác thật. Đến Ba Tàu còn sợ nữa là! Chắc các bác chưa quên trào cụ Ngô có lệnh cấm gọi tổng thống bằng cụ. Ấy là vào ngày 5-5-1960, ông Đoàn Thêm có ghi sự kiện này đấy, và tôi dám chắc chính ông ấy cũng không biết lý do cái lệnh đột ngột đó. Có gì đâu: sáng hôm ấy, mấy ông ba tàu cở bự lên đồ lớn vào yết kiến ông Diệm, để trình bày một ý kiến mà các ông loanh quanh năm lần bảy lượt xin ông Diệm đại xá cho mới dám tỏ bày. Ông Diệm nghe nói lằng nhằng mãi đâm bực mình, vì đã cho phép nói mà vẫn không ai nói rõ là ý kiến gì. Sau phải hứa sẽ không bắt tội ai cả, bấy giờ một ông gốc Quảng Đông mới mạnh dạn: "Thưa tổng thống, chúng tôi chỉ thắc mắc về một tiếng cụ. Chúng tôi vẫn biết cụ là một tiếng xưng hô với bậc tôn trưởng, nhưng mỗi khi được đặc ân lên yết kiến tổng thống, chúng tôi xin ngài cho phép không dùng tới tiếng ấy. mà không phạm tội vô lễ, vì xin tổng thống tha chết cho, hai chữ cụ Ngô e có kẻ xuyên tạc ra là ngộ cu". Ông Diệm hầm hầm đứng lên chẳng nói chẳng rằng, bỏ khách lừng lững đi sang phòng khác, như lối Tôn Quyền tác-sắc với Khổng Minh rũ áo quay vào hậu đường. Thế là ngay chiều hôm ấy có lệnh: cấm dùng chữ cụ để tôn xưng họ Ngô.

- Bác này chỉ khéo giải thích khôi hài. Sinh nói. Nhưng bác nói có sách, ai dám không tin. Tôi thấy rằng những thí dụ các bác đưa ra đề cập đến cả hai lối nói lái: lối Nam chỉ lộn lại hai chữ đầu và cuối, rồi đổi tử âm đầu chữ nọ với tử âm đầu chữ kia. Như đường Công Lý, lái ra Ký lông. Lối Bắc thì Công Lý sẽ thành ra Ly cống, tức là cũng lộn lại hai chữ, nhưng chỉ đổi vị trí của hai đầu thôi. Nay chúng ta dự thảo một hiến pháp cho Lại Hối, tôi xin đề nghị mấy khoản này:
Điều 1: Áp dụng cả hai phương pháp Nam và Bắc tùy theo trường hợp, cốt dùng phương pháp nào đi đến những câu có nghĩa lý đôi chút.
Điều 2: Hạn chế nói lái vào phạm vi ý tục lái thanh.

Dương nhận xét:
- Điều 1 tỏ ra chúng ta không chia rẽ Nam Bắc: điều 2 hợp với chủ trương của Phrới-mun dinh, mà có người còn gọi là Dích-mun-phrơi (Siegmund Freud) để quyền phòng kiểm duyệt bảo vệ cho si tủ khỏi bị xung cốc.

- Minh hô hết hoàn! Lái thanh lại còn tránh cho ta nhiều khẩu nghiệp có hại cho hòa bình của xã hội và khiến ngôn ngữ châm biếm đến đâu cũng vẫn giữ được vẽ tao nhã văn hoa. Điều đáng ghi nhất là hội sẽ làm giàu cho tiếng nước nhà, và do đó hội sẽ góp chút ít công phu vào nền văn hóa dân tộc.

Mấy người đều vui vẻ đồng ý chấn cả hai ki. Sau đó hội bế mạc bằng những câu chào man rợ:
- Biên chào tạm xịt
- Nặm lái muôn hôi!



RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - lanhdien - 01-10-2011

CHUYỆN CÀ KÊ(Lãng Nhân)


Hơi hướng

Hòa vừa vào tới nhà Sinh đã ngã lưng xuống ghế, hai tay vươn ra, thở dài:
- Mệt quá. Vừa đi dạo một vòng phường phố nhìn trai thanh gái lịch, họ ăn mặc sao mà kệch cỡm thế. Thật là khó ngửi quá!

Sinh đáp:
- Bác dùng chữ khó ngửi, có lẽ cũng không ngờ là đã nói lên một sự thực về sinh lý đấy. Trông kẻ ăn mặc lố lăng, sao lại thành khó ngửi? Ấy thế mà đúng: thị giác có khi gợi ra khứu giác, cũng như khứu giác dẫn đến vị giác. Ngồi vào bàn ăn, có món chả nướng thơm lừng, nếu bác nói: "Chả ngon quá!" là bác lầm rồi, phải nói là chả thơm quá, vì mùi thơm đưa lại vị ngon. Thử mà xem. Hôm nào ngạt mũi thì món chả không còn thích khẩu nữa. Ta ưa ngửi hoa, hít thở hương thơm của đất cỏ dưới mưa xuân, của chân rạ mới cắt ngoài đồng, của lá vàng rụng xuống ngày thu, khứu giác cho ta cái thú vị ấy cũng như cho ta thưởng thức món cao lương. Khứu giác đôi khi còn nhắc nhở lại một ngày nào xa xưa ta ngồi bên người đẹp "cái buổi ban đầu lưu luyến ấy".

- Thế ra khứu giác lại làm sống lại cả hồn thơ nữa ư? Nhưng tại sao có mùi ta ưa, lại cũng có mùi ta ghét? Đành rằng mùi hôi tiết ra ở đống rác, ai cũng phải ghê tởm. Song không phải mùi hôi nào cũng đáng ghét cả, chắc bác cũng nghiệm như thế chứ? Vả lại, vào một nhà bán cá mắm, lâu rồi không thấy mùi tanh nữa; vào một nơi có cỏ chi cỏ lan, lâu rồi cũng không thấy mùi thơm, là vì mình đã hóa theo thơm hay tanh rồi. Cho nên phải chọn bạn mà giao du (Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tắc dữ chi câu hóa hĩ. Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi câu hóa hĩ, thị dĩ quân tử thận sở dữ xử dã – Khổng Tử gia ngữ). Coi vậy, gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, lời dạy của ngàn xưa thật có vẻ khoa học nhỉ!

- Quả vậy, một mùi đặc biệt mà hít thở lâu, khứu giác quen đi, không nhận được chân-xác nữa, cho nên những người bị bắt buộc phải làm việc trong những xưởng máy ngột ngạt hơi dầu cặn, hoặc phải mó tay vào nhiều chất nặng mùi, lâu rồi cũng không thấy khó chịu. Có điều là chúng ta có nhiều tính kỳ quặc. Cái gì người này bảo thơm, có khi người kia lại cho là khó ngửi, và ngay cả những hơi không thanh thoát lắm, nếu trừ được đi, chưa hẳn là đáng mừng, nhiều người còn thấy như nhớ tiếc mà đòi lập nó lại. Bên Mỹ đã chế ra những lưới đánh cá bằng nylon không có mùi mẽ gì, để thay lưới bằng đay mau trở thành tanh tưởi, thì có người đi câu lại đòi lưới phải tỏa mùi tự nhiên của gai, của hắc ín. Nhà kỷ nghệ bèn chế ra một thứ nước bông đượm hương nước biển để tẩm vào lưới cho vừa mũi khách hàng. Những nhà chế tạo đồ nylon giả da cũng thường phải ướp nhiều đồ vật vào một thứ nước thoang thoảng mùi da thuộc. Nhưng dù sao, biến chế khéo đến đâu cũng không gây được cái hương vị độc đáo của thiên nhiên. Về tình yêu của lứa đôi, điều khám phá quan trọng về khứu giác là khi đã không chịu được hơi hướng của một bên thì hương cũng khó gây nên mùi nhớ nữa. Vì khứu giác là một giác quan thầm kín, có liên quan mật thiết đến tình cảm và lại hay bị dồn ép nhất. Da thịt mà có mùi "tục lụy", bạn thân cũng nín thở chẳng dám nói ra. Những hương thừa do sự thiếu vệ sinh thì không đáng kể, đáng kể là khi đã tắm giặt sạch sẽ, mùi da thịt phải hợp mũi của nhau. Nữ sĩ Thụy Điển Michaelis nói: "Đàn ông đối với tôi cũng như hoa, tôi thưởng thức theo mùi thơm của họ". Kể cũng là thính mũi và can đảm đấy chứ!

- Vậy ra bác bảo mỗi người chúng ta đều có một mùi riêng, hấp dẫn đối với người này nhưng lại khó chịu với người khác?

- Tất nhiên. Không những thế, mỗi giới lại có mùi của nó. Nhưng trong mỗi phái, mùi lại đổi thay theo tuổi, theo giống, theo tính khí, và theo lúc hờn giận hay vui cười. Và phản ứng cũng khác nhau ở mỗi người. Người đàn bà có khi thoáng ngửi hơi chồng là biết được thái độ của chồng. Khi nào mát mẻ dễ chịu, thì mọi việc vui vẻ, lúc cáu giận thì thật là khó thương. Dùng nước bông là một cách hiệu nghiệm để tẩy trừ hơi hướng, nhưng các bà có ngờ đâu thứ làm căn bản cho nước bông lại có nhiều chất chẳng thơm tho gì: nào là chất long-diên-hương trích trong những hạch nằm nơi ruột cá voi, ngửi như mùi chốc đầu; xạ là chất lấy ở trong cơ quan sinh dục của giống chồn, đượm mùi hăm nách. Tất cả tài nghệ của nhà làm dầu thơm là đem hương hoa pha lẫn với những mùi thú vật, để gợi lại thú tính là thứ mỗi ngày cần phải trau chuốt tinh vi để kích thích sự khoái cảm của con thú người mỗi ngày một "lờn" đi vì thói quen.

- Nếu thế thì Lệ Quyên, người cung nhân của vua Hán Quang Võ có "hơi thở thơm như lan" có lẽ cũng chỉ hợp với mũi ông vua tàu ấy mà thành tiếng tăm để đến bây giờ. Khác nào mồ hôi thị Bằng khi xưa ý hẳn hợp với mũi Ôn Như Hầu lắm, nên nhà thơ mới "xếp tàn y lại để dành hơi". Đã chắc gì đối với mũi khác, hơi áo này không xông ra mùi mốc, hương lan kia không biến ra mùi huệ rữa bốc từ trong bình lên. Mà hoa trà, Yên Đỗ cho là "đếch có mùi thơm" vị tất đã đúng, vì biết bao người từng chết mê chết mệt vì Trà hoa nương tử.

- Âu là đối với mùi mẽ, không nên phê bình, vì mỗi người một mũi cũng như đối với màu sắc và mùi vị, mỗi người hưởng ứng một khác.

- Ấy cũng như trong địa hạt văn chương, có tác phẩm người này cho là hay, người kia lại bảo là dở. Sự thật thì vẫn như câu của Lỗ Tấn: "văn mình vợ người". Chả là vì "của ai vừa mũi người ấy"!



RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - hvn - 01-10-2011

Cảm ơn bác. Lâu lâu đọc lại văn cụ Lãng Nhân vẫn thấy hay phết happy


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - lanhdien - 04-10-2011

NÓI LÁI MÀ CHƠI

Nói lái là một lối nói ghép chữ, đem phụ âm tiếng trước ghép với cả âm tiếng sau hoặc ngược lại mà ta thường gặp, thường dùng trong ngôn ngữ Việt Nam, ví dụ như cá đối # cối đá ( giữ nguyên các dấu) hoặc thay đổi dấu như mèo cụt # mút kèo. Ngôn ngữ Việt Nam vốn đơn âm, nên những tiếng nói lái tương đối dễ cấu tạo và dễ có nghĩa .Tiếng nói lái trở lại chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành một nghĩa khác, nếu nó vô nghĩa ( như con gà # cà gon ) thì không thể gọi là nói lái được.

Đây là một đặc điểm của ngôn ngữ Việt nam mà từ khi có tiếng Việt chúng ta đã có nhiều giai thoại, nhiều tác phẩm văn chương đã đi vào văn học sử, không những ta thấy nhiều kiểu nói lái trong văn chương bình dân ( tục ngữ, ca dao) mà còn cả trong văn chương uyên bác ( thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khoa Vi ). Không phải như lối nói lái (speak pig latin) hay nói lịu ( spoonerism) trong Anh Ngữ , lối nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam đa dạng, dễ dùng , dễ phổ biến và có nhiều ý nghĩa thâm trầm, ý nhị .

Tuy nhiên đặc điểm nói lái trong ngôn ngữ Việt Nam phần lớn thường có khuynh hướng thiên về dung tục, ghi chép ở trong sách vở hay phát biểu giữa nơi công cộng thường không được tao nhã cho lắm . Nhiều người đã lợi dụng lối nói lái thô tục trên sân khấu, trong các buổi trình diễn để chọc cười khán giả, khiến cho nhiều bậc thức giả phải khó chịu nhăn mặt. Có lẽ vì vậy mà sự phát triển của cách nói lái qua thời gian đã có nhiều đóng góp cho ngôn ngữ nhưng vẫn chưa được sắp xếp xem như một phần của ngôn ngữ và văn học Việt Nam, dù là chỉ một phần nhỏ.
…..


NÓI LÁI TRONG VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN.

Trong nhân gian, khi xử dụng ngôn ngữ trong khi giao tiếp hàng ngày, người ta thường tránh những tiếng có thể gây ngộ nhận, vì khi những tiếng nói ấy được phát ra, người ta nghĩ ngay đến tiếng nói lái kèm theo thô tục và suồng sã. Nhiều người trẻ tuổi vì không hiểu cách nói lái đã bị hiểu lầm khi vô tình xử dụng các tiếng nghe rất thông thường nhưng rất tục khi được nói lái lại như : nắng cực, đồn lầm, công ngủ, trái gì? trái giứng... có rất nhiều trong ngôn ngữ Việt Nam.

Trái lại trong ca dao, câu thơ ví von sau đây, nói lái, đối đáp rất có ý nghĩa và thanh nhã:

- Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được, dẫu nghèo cũng ưng.

- Con mỏ kiến đậu trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang
Anh đà đối đặng, e nàng vong ngôn.

Trai gái miền trung hẹn hò gặp gỡ nhau, sợ có người nghe thì tìm cách nói lái vẩn vơ về ruộng đồng, rơm rạ để hiểu ngầm với nhau. Chàng nói bâng quơ : “bị môn, bị khoai, bị nưa”, nàng khất: “cau khô, trầu héo, tái môi.” hay “nón cụ, quai thao, tốt mối.” Hoặc “bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”... Người qua đường không thể hiểu rằng bị nưa là bựa ni (bữa nay), tái môi là tối mai, tốt mối là tối mốt, tối múi là tối mốt...

Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái như vầy:

Xưa tê câu ró ngó xinh
Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ.

Thì ra câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu cả. Trong văn chương bình dân có lối hò tục nói lái như đoạn hò sau đây:

Anh đi về cẳng thấp cẳng cao,
Em cũng mời anh vô hút thuốc ăn trầu,
Kẻo thế gian lắm lời, nói ở "dồn lâu" mới về.

Đáp:

- Anh cũng muốn vô nhà, ghé hút thuốc ăn trầu,
Nhưng sợ mai tê quan biết được, nói "đặt cầu" em leo.


NÓI LÁI TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG HAY NÓI LÁI TỤC.

Hồ Xuân Hương với những bài thơ tả vật, tả cảnh đã dùng những hình tượng , chữ nghĩa rất táo bạo khiến cho người ta thường nghĩ ngay đến các sinh thực khí hay những quan hệ giữa nam nữ, như một ám ảnh tâm lý, nếu nói theo các nhà phân tâm học.( Vịnh Cái Quạt, Đánh Cờ Người, Quả Mít, Đèo Ba Dọi...) lẽ cố nhiên nhà thơ họ Hồ cũng không quên dùng nhiều chữ theo lối nói lái một cách táo bạo trong thơ bà, mà người đọc ai cũng hiểu:

...Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)

...Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)

Nhân nói chuyện lái trong thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi xin trích dẫn một bài thơ nói lái của một tác giả vô danh nhan đề là Trông Trời (xin đọc theo kiểu bắc kỳ là Chông Chời):

Cô kia sao cứ trông trời
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!

Sau đây lại thêm một bai thơ tục theo kiểu nói lái:

Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".



BÀI THƠ NÓI LÁI THỜI KHÁNG CHIẾN.

Trong thời kháng chiến chống Pháp, khoảng những năm 1951- 52, sau Đại hội Đảng Lao Động , chính phủ bắt đầu tinh giảm biên chế và loại các thành phần tiểu tư sản ra khỏi bộ máy công quyền, một bài thơ nói lái do một nhân vật vô danh bất mãn bỏ kháng chiến về thành tung ra rất được phổ biến. Chính vì những tiếng nói lái đặc biệt ( tiếng Hán Việt lái thành tiếng nôm ) mà bài thơ được người ta nhớ lâu và truyền tụng :

Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chiến khu thu cất chú khiêng rồi
Thi đua thắng lợi thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.


GIAI THOẠI NÓI LÁI THỜI PHÁP THUỘC.

Một giai thoại thời thủ tướng Nguyễn Văn Tâm được lưu truyền ở miền nam như sau: hồi Thủ Tướng Tâm còn là Quận Trưởng Cai Lậy (có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy) lúc ăn mừng tân gia, có người đem tặng một bức hoành có khắc bốn chữ nho : "Đại Điểm Quần Thần" tạm dịch nghĩ a là "bề tôi chức vụ lớn". Nguyễn Văn Tâm lấy làm hãnh diện đắc ý, nhưng sau đó có người phát giác ra là ông Tâm bị chưởi xéo, vì bốn chữ Đại Điểm Quần Thần, dịch nôm sát nghĩa là Chấm To Bầy Tôi.. nói lái ra thành Chó Tâm Bồi Tây.

Lối nói này cũng phổ biến như người ta nói tới một người đàn bà "bách diệp", nghĩa nôm là "trăm lá", nói lái là "tra lắm" (già lắm).


NÓI LÁI THỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Sau tháng 4 năm 1975, dân tình cực khổ , do đó trong nhân gian có những câu nói lái rất phổ thông:

Quy mã là qua Mỹ , hay :
Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo dày.
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên... sáng ăn khoai.

Nói về tệ nạn cửa quyền tham nhũng và các tệ nạn thì nhân gian có các câu nói lái :

Thủ tục đầu tiên là ..tiền đâu ?
Vũ Như Cẩn là Vẫn như cũ.
Nguyễn Y Vân là Vẫn Y Nguyên
Bùi Lan là Bàn Lui
Hộ khẩu là Hậu khổ.

Chỉ riêng ngành giáo dục không thôi đã có nguyên một bài nói lái tự thán như sau :

Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm tốt thôi.



THƠ NÓI LÁI KHÔNG TỤC.

Cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi là một nhà thơ Đất Thần Kinh, ở Vỹ Dạ đã làm một bài thơ nói lái rất công phu và có ý nghĩa như sau:

Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải (**)
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.

Ông Tôn Thất Đàm ở Úc đã có một bài nói lái nhan đề “Má Con” như sau:

Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.

Trong nhân gian, người ta rất thích thú được nói lái và nghe nói lái, có khi bất chợt tình cờ vô ý mà tiếng nói ra thành một tiếng nói lái, có khi người ta tìm cách đẽo gọt, tìm tòi để kiếm ra những từ nói lái có ý nghĩa. Tác giả có thể là một mà cũng có thể là nhiều người, dần dà ngôn ngữ nói lái thành ra tài sản chung, đóng góp vào trong kho tàng văn chương bình dân của ngôn ngữ Việt Nam. Xin trích dẫn một số tiếng nói lái thông thường mà chúng ta hay bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày:

trễ giờ thì trở (về) dề,- ôm nhiều thành yếu và yêu nhiều thành ốm, - đơn giản như đang giỡn,- chà đồ nhôm là chôm đồ nhà,-cây còn ( mộc tồn ) là con cầy. - cờ tây là cầy tơ.

và nói lái tiếng tây : très chaud (nóng quá) thành trop cher (đắt quá).

Trong giới bình dân có rất nhiều câu nói hoặc chuyện nói lái rất thô tục, rất dễ nói lái với những tiếng có vần ”ôn” như môn, tôn...chủ yếu nhắm vào các bộ phận sinh dục và chuyện quan hệ giữa nam nữ ...mà trong thơ Hồ Xuân Hưong chúng ta cũng đã thấy ít nhiều, như ta thường nghe trong dân gian như “đạo dụ!”, “ điện lu”, “chồn lùi”, “cụ Đệ”, “mụ Đắc”...

(Nguồn: vietlyso.com)



RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - lanhdien - 06-07-2012

Quảng Nam nói lái

Chơi chữ là hiện tượng tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào, bằng cách tận dụng hiệu quả của ”đồng âm dị nghĩa”. Các câu đối Hán Việt đã cho chúng ta biết bao ví dụ về cách chơi chữ ”đồng âm dị nghĩa”.

Nhưng “nói lái“ chắc hẳn là cách chơi chữ độc nhất vô nhị của những ngôn ngữ đơn âm, trong đó có tiếng Việt. Dường như trong tiếng Pháp chỉ có vài cặp chữ từ “très chaud” (nóng lắm) thành ”trop cher” (mắc quá). Nhưng những cụm từ đó có lẽ chỉ được phát hiện tình cờ, và không mang tính bản chất.

Cả nước ta có rất nhiều vùng nói lái, và mỗi vùng đều ít nhiều mang một sắc thái riêng, nhưng cách nói lái hòa nhập tự nhiên trong ngôn ngữ đời thường có lẽ phải nói đến vùng đất Quảng Nam. Giọng Quảng Nam phát âm rất sai các phụ âm v,d ở đầu chữ, các phụ âm c,t ở cuối chữ, các nguyên âm a, ă cùng các điệp nguyên âm đi chung với nó như ao, ắt …, đặc biệt là các âm “g” ở cuối chữ và các dấu “hỏi”, dấu ”ngã”. Khoai lang và hoa lan được đọc thành một âm. Nhưng chính đặc điểm nhập nhằng không rõ ràng trong phát âm lại là miếng đất màu mỡ cho nói lái phát triển. Nói lái kiểu Quảng Nam thường mang đặc điểm “chém to kho mặn” của người dân vùng đất này, nghĩa là người ta khoái nói lái “mặn”.

Trong các cụm từ nói lái đó, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể hoặc những điều bị xem là “vùng cấm kỵ” trong ngôn ngữ. Thông thường người có “văn hóa” ít hoặc không bao giờ nói đến những “vùng cầm kỵ”, dầu đó những vùng mà họ luôn xâm nhập vào và luôn nghĩ đến. Chỉ có người nông dân mới dám mạnh dạn nói cái mình nghĩ dưới cái lốt nói lái, dầu chỉ để thư giãn. Trong đời thường, những câu chuyện tiếu lâm mặn đôi khi lại kéo lại gần nhau hơn những người còn đang e ngại nhau trong buổi sơ giao. Lạm dụng tiếu lâm mặn hay lói nói lái mặn thì dễ trở thành suồng sã, nhưng nếu dùng đúng liều thì nó có thể trở thành một chất kết chặt tình thân.

Trong cuộc nói chuyện thường ngày, người dân Quảng thường luôn luôn tận dụng mọi cơ hội nói lái để góp thêm tiếng cười. Dường như người dân Quảng Nam nào cũng mang sẵn máu tiếu lâm trong người nên họ thường tiếp thu nói lái rất nhanh và nhạy bén. Trong một buổi liên hoan, được một cô bạn đồng nghiệp mời uống, chắc chắn anh chàng được mời thế nào hoan hỉ uống cạn và nhắc nhở : “Mời thì tôi uống, nhưng khi tôi muốn là phải ời đó nghe!”. Muốn cái gì và đối phương có chịu “ời” không, điều đó không quan trọng bằng một trận cười. Liên hoan ở cơ quan xong, thế nào cũng có một đấng mày râu đề nghị đi hát karaôkê với lời giải thích : ”Đã ăn no cái bụng thì muốn bung cái nọ”. “Cái nọ” là cái gì mà cần phải “bung”, điều đó cứ tự hiểu mà .. bật cười.


Các cô tiếp thị bia người Quảng Nam tại các quán nhậu, ngoài bản chất nói lái cố hữu, dường như được “tôi rèn” thêm qua nền ”văn hóa nhậu” nên khả năng nói lái đáng nể, khiến ngay các “chuyên gia nói lái” Quảng Nam cũng lắm khi phải chịu… “cam bái hạ phong”. Tên các món ăn thức uống đều trở thành phương tiện để đùa bỡn, chọc ghẹo nhau. Lươn thì phải có món lươn nấu với rau dền, hay gọi tắt là lươn dền. Dưa leo thì phải là loại leo đá và phải được thái dọc ăn mới ngon. Mực thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, tức món mực ngò, còn thịt rừng thì phải là thịt rừng nướng, riêng thịt chồn phải lùi mới đúng bài. Món thịt kỳ nhông được gọi là món “khủng long đời cuối”, nhưng khi gọi thì các bợm nhậu không quên hỏi thêm cô tiếp thị có thích món long nền hay không. Ăn mít phải có người đút cho thì ăn mới thấy ngon. Ăn lẩu thì phải đốt bằng cồn Lào hoặc cồn lỏng mới mau sôi hơn cồn đặc!

Đầu năm đi xem bói giò gà, có bà còn bỡn cả ông thầy coi bói : “Thầy xem thử cái giò ni có dững không, chắc cái ni dững”. “Dững” ở đây có nghĩa là “vững vàng”, vì phát âm sai nên nó lại trở thành lợi khí chơi chữ khi ghép với “cái” để thành “cái dững”. Người đồng hương được gọi là người “một làng”, người dân quê được gọi là người ở các “làng thôn”. Một đức ông chồng gây gỗ đánh vợ, làng giềng can ngăn. Hôm sau thấy vợ chồng lại vui vẻ, bạn bè hỏi, anh ta trả lời : “Giận thì làm vậy chứ tui có đánh đấm chi đâu, có đánh bả cũng chỉ là đánh mẹo thôi mà”.

Nhưng chính trong thơ ca, cái đặc tính nói lái đó mới thực sự trở thành một sắc thái đặc biệt của Quảng Nam. Bùi Giáng là nhà thơ xứ Quảng thường đưa vào ngôn ngữ của mình cái lối cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái của quê hương ông. Người đọc thường gặp trong sách của ông những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…Trong các cụm từ nói đó, ngay chỗ oái ăm nhất ông ưa đặt một chữ hợp nghĩa khác (ngọ, trung, họp). Ông cũng ưa đùa bỡn như thế trong thơ mình:

Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra

(Mưa nguồn)

Không phải cần đến cây đa cây đề trong làng thơ, người bình dân xứ Quảng vẫn khoái làm thơ nói lái. Có một ông thợ hớt tóc góa vợ có quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Cả hai đều ở tuổi “U50”. Điều đó thì quá bình thường, thậm chí còn mang nét “cận nhân tình” nữa, nhưng hai câu thơ ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình mới thực sự đáng ghi nhớ :

Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo đất mới rời em ra (!)


Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê. Ở xứ Quảng có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Nhiều bài thơ nói lái “mặn” của ông có lẽ khiến cả bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương phải “kính cẩn nghiêng mình”. Bài thơ nói lái tôi chép dưới đây được ông làm trong một tình huống có thực. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Câu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này, và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu.

Ai bàn chi chuyện đã an bài
Trai khiển đồng tình gái triển khai
Cứ sợ cho nên thành cớ sự
Mai than mốt thở lỡ mang thai
Tính từ ngày tháng vương tình tứ
Khai ổ bây giờ báo khổ ai
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng
Thôi đành để chúng được thành đôi


Ngẫm mới thấy bài thơ sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chìu theo; nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “sự cố”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc. Hai câu cuối quả thực vô cùng cảm động và mang nặng tính nhân văn.

Thơ lái đến mức đó là đã đạt “lô hỏa thuần thanh”. Trên đây mới chỉ là bài thơ nói lái “chay”. Tôi rất mong có dịp giới thiệu đầy đủ những bài thơ “chay” lẫn “mặn” của nhà thơ dân gian này cùng bạn đọc, để bạn đọc có dịp hiểu thêm về thơ nói lái của người Quảng Nam.

Ở Quảng Nam, người nào có tài nói lái thì được khen là người nói lái giỏi, ngược lại là nói lái dở. Nói lái nhanh quá và nhiều quá thì bị chê là nói lái dồn. Những người “ngoại đạo” với cung cách nói lái chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều điều lý thú bất ngờ khi tìm hiểu cách nói lái của người Quảng Nam. Bên cạnh những điểm tinh tế về ngôn ngữ, ít ra là nó sẽ tạo những trận cười sảng khoái và thắt chặt thêm mối tình thân bên chén rượu.

HUỲNH NGỌC CHIẾN


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - Hồ Yên Dung - 07-07-2012

Có hai câu ngày xưa Ngoại mình hay đọc, post lên huynh đệ tỷ muội đọc cho zui nè.
1. Chi ma đui kỉ chà hôm quiêu. Hà thum mu giá cạn ba lầy cá không rim.
2. Hít mái đô dem bòn ca xái lụm ôi cho rằn.
010


RE: Nói Lái : một dạng đặc biệt của tiếng Việt - Nguyễn Hữu Phước - lanhdien - 07-07-2012

(07-07-2012, 11:08 PM)Hồ Yên Dung Đã viết: Có hai câu ngày xưa Ngoại mình hay đọc, post lên huynh đệ tỷ muội đọc cho zui nè.
1. Chi ma đui kỉ chà hôm quiêu. Hà thum mu giá cạn ba lầy cá không rim.
2. Hít mái đô dem bòn ca xái lụm ôi cho rằn.
010

câu số hai tạm hiểu:
mít đóc đem ăn, bà con xúm lại chia cho đều....heheee