出塞 - Xuất tái
王之渙 - Vương Chi Hoán
黃河遠上白雲間, 一片孤城萬仞山。
羌笛何須怨楊柳, 春風不度玉門關。
Hoàng hà viễn thượng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận san.
Khương địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc môn quan.
Dịch nghĩa :
Ra biên ải
Sông Hoàng hà phía nguồn trên xa tít giữa mây ngàn (đoạn sông chảy từ trên núi ra)
Một mảnh thành trơ trọi với vạn nhận núi xung quanh (1 nhận = x,y thước)
Tiếng sáo người Khương cớ chi thổi bài Oán dương liễu
Giớ xuân chẳng vượt ra ngoài Ngọc môn quan
Dịch thơ :
Hoàng Hà nơi tít chốn mây ngàn,
Một tấm thành côi vạn thước san.
Khương địch kêu chi lời Oán liễu,
Gió xuân nào ghé Ngọc môn quan.
------------
Hoàng hà tít phía ngàn mây,
Thành côi một mảnh non xây ngất trời.
Sáo Hồ Oán liễu chi lời,
Giớ xuân đâu đã ghé vời Ngọc môn.
-------------------------------------------------------
- Bài tứ tuyệt này có lẽ là 4 câu đầu của 1 bài bát cú.
- Nếu ko phải Khương địch mà là Lãnh Địch. Thì có lẽ thế nhân này tất ko chỉ là 4 câu
(vớ vẩn còn có cả 1 thiên vọng cổ í chớ)