CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ HÀNH ĐỘNG ĐÊ TIỆN
1. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐẶC ĐIỂM
Quan điểm 1 cho rằng: Ngôn ngữ đê tiện và hành động đê tiện là những hành vi đê tiện độc lập, khác nhau và không có mối liên hệ với nhau. Ngôn ngữ đê tiện là việc sử dụng lời nói, hoặc chữ viết để tác động đến đối tượng cần bị tác động bởi sự đê tiện. Còn hành động đê tiện là những hoạt động cụ thể, mà chủ thể thực hiện hành vi đê tiện không sử dụng các hoạt động trao đổi bằng ngôn ngữ nhằm để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng mà mình muốn tác động.
Quan điểm 2, cho rằng: Hành động đê tiện bao gồm cả ngôn ngữ đê tiện. Bởi lẽ, nói và viết cũng được xem là hành động. Trái với quan điểm thứ nhất, khi cho rằng: "Ngôn ngữ đê tiện và hành động đê tiện không thể là một, chúng có sự tách bạch rõ ràng" thì quan điểm 2, cho rằng: "Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và thống nhất biện chứng với nhau". Theo đó, hành động đê tiện bào gồm rất nhiều hoạt động, trong đó có hoạt động ngôn ngữ. Việc sử dụng ngôn ngữ cũng được xem như là một hành động đê tiện đầy đủ.
Người viết đồng tình với quan điểm thứ hai và xem ngôn ngữ đê tiện và hành động đê tiện đều là những hành vi đê tiện có chủ ý, sau khi thực hiện xong một suy luận đê tiện.Hành vi đê tiện được biểu hiện qua các dạng: nói hoặc làm, nói và làm, viết hoặc làm, viết và làm.
Nói hoặc làm, nghĩa là nói nhưng không buộc phải làm, hoặc làm nhưng không buộc phải nói(tương tự với viết hoặc làm)
Nói và làm, nghĩa là nói đồng thời đi đối với làm, hoặc nói trước làm sau, hoặc làm trước nói sau(tương tự với viết và làm)
Nói là việc sử dụng ngôn ngữ có chủ đích, thông qua các hình thức biểu hiện của lời nói thoát ra từ cửa miệng. Viết là ghi chép lại, đánh máy, thể hiện tư tưởng bằng văn bản nói chung.Tóm lại, sự truyền đạt tư tưởng đến một người cụ thể, bằng hình thức lời nói hoặc chữ viết nhằm để diễn đạt và đưa suy luận đê tiện thành một tác động cụ thể.
Làm là hoạt động có chủ ý sau khi đã thực hiện xong một suy luận đê tiện, là giai đoạn tiếp theo của suy luận. Không làm gì cả cũng là một hoạt động của đê tiện, trạng thái ở đây được hiểu là thái độ dửng dưng trước mọi hiện tượng và sự vật, không can thiệp, không làm thay, không để tình cảm chi phối. Hoạt động bỏ mặc, ngồi yên không làm gì cũng là một hành động đê tiện có chủ ý. Bởi lẽ, nó xuất phát từ một suy luận đê tiện, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện cảm thấy việc hành động để gây tác động đến đối tượng nào đó có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho mình, hoặc chủ thể cảm thấy không có lợi ích gì khi hành động đê tiện được diễn ra, nên họ đã chọn cách ngồi yên, dửng dưng, không làm bất kỳ việc gì.
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN MỘT HÀNH VI ĐÊ TIỆN
2.1 NÓI KHIẾN CHO NGƯỜI KHÁC PHẢI LÀM
Nói khiến cho người khác phải làm là việc sử dụng phương tiện ngôn ngữ tác động lên đối tượng cần phải bị xử lý bởi các hành vi đê tiện, khiến cho đối tượng này rơi vào trạng thái buộc phải làm một việc gì đó nhằm để tự bảo vệ lợi ích bản thân hoặc ra một quyết định mang tính chất quyết thắng trong hoạt động tranh luận, trong sản xuất kinh doanh, trong chính trị, tôn giáo và xã hội,...Với thái độ tâm lý nóng nảy, bức xúc, các đối tượng dễ mắc phải các sai lầm nghiêm trọng từ hành vi của mình. Từ đó, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện có thể đạt được mục đích của mình.
Phương pháp nói khiến cho người khác phải hành động gồm 2 phương pháp cơ bản sau:
+Phương pháp tấn công trực diện: là tấn công trực tiếp vào cá nhân người phát biểu trong tranh luận, tấn công có chủ đích đối với tư cách, nhân thân, lối sống,...của người cần bị tác động bởi các hành vi đê tiện. Trong khoa học tranh luận, gọi là Công kích cá nhân
Việc công kích cá nhân khiến cho đối tượng phải rơi vào tình thế buộc phải tự bảo vệ mình, rồi từ đó, đối tượng tự sa đà vào một câu chuyện khác, một vấn đề khác mà quên đi vấn đề chính trong tranh luận.Ví dụ: Ông A phát biểu một vấn đề, Ông B không tranh luận về vấn đề do ông A phát biểu, mà B tấn công vào tư cách của ông A. Làm cho người nghe nghi ngờ về luận điểm của ông A đã phát biểu. Từ đó, ông A cảm thấy bức bối, càng nói càng sai, ngày càng xa đà vào vấn đề khác. Trong một vài trường hợp, ông A có thể thực hiện hành vi đánh người do quá bức xúc, nóng nảy và mọi người đều cảm thấy nghi ngờ hoặc tỏ ra bất mãn đối với hành vi không kiểm soát của A
Một dạng khác của công kích cá nhân, được gọi là Phao tin đồn nhảm nhằm để hạ uy tín của đối phương, thông qua các hoạt động tung tin đồn, rêu rao khắp nơi, chuyện không nói có. Trong chính trường, phao tin đồn nhảm để hạ uy tín của đối thủ chính trị. Trong tôn giáo, dùng để bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của những người lãnh đạo tôn giáo, nhà sư, chủ trì,... Với việc làm này, nếu người trong cuộc không sáng suốt thì dễ mắc sai lầm nghiêm trọng, ngày càng sa lầy vào thủ đoạn của kẻ tung tin
+Phương pháp tấn công gián tiếp: là phương pháp, thủ đoạn mà chủ thể thực hiện hành vi đê tiện không trực tiếp tấn công vào đối tượng, mà mượn tạm một điều kiện, hoàn cảnh, sự vật nào đó để tác động đến đối tượng cần bị tác động. Tiêu biểu của phương pháp này là chỉ chó mắng mèo
Chỉ chó mắng mèo là việc mà chủ thể thực hiện hành vi đê tiện tấn công vào một sự việc nào đó, nhưng lại cố tình mượn tạm một sự việc khác để đề cập. Biến thể của chỉ chó mắng mèo là nói móc, nói mánh khoé, không nói thẳng ra và không tác động một cách trực tiếp đối với người bị tác động bởi các hành vi đê tiện. Cách này thường được các nhà tri thức sử dụng nhằm để che mắt thiên hạ, không muốn thế giới biết mình đang sử dụng thuật "công kích cá nhân" trong tranh luận. Hậu quả của hành vi này, là đối tượng bị tác động cũng sẽ khó kiểm soát được hành vi của mình, ngày càng sa đà vào tranh luận. Đôi khi, đối tượng còn gây ra những hành động đáng tiếc.
Khác với phao tin đồn nhảm gây ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng, xúi giục, lôi kéo là một trong những chiến lược hiệu quả trong việc lợi dụng cảm tính đám đông nhằm để ủng hộ cho quan điểm của chủ thể thực hiện hành vi đê tiện. Thông qua các giá trị đạo đức, chuẩn tắc, khuôn vàng thước ngọc mà chủ thể mang đến, vấn đề đang tranh cãi vô hình chung trở thành cái cân mà phần nghiên thuộc về chủ thể thực hiện hành vi đê tiện gây ra. Người ta sẽ không còn tin hoặc tỏ ra nghi ngờ, hoặc kịch liệt lên án đối tượng bị tác động bởi hành vi này.
2.2 LÀM KHIẾN CHO NGƯỜI KHÁC KHÔNG NÓI
Làm khiến cho người khác không nói, hoặc không thể nói là việc mà chủ thể thực hiện hành vi đê tiện tiến hành tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên đối tượng cần bị tác động bằng một hành vi đê tiện cụ thể nào đó. Việc tác động này thể hiện qua những hành động như: lừa đối, đe doạ, cưỡng ép hoặc cản trở người khác thực hiện một hành vi nào đó, mà khiến cho kẻ bị tác động không thể nói thành lời
Có hai nhóm biện pháp:
Nhóm 1: Hành động lừa dối
Bao gồm các kỹ thuật: Đánh tráo khái niệm, đánh tráo tư duy, đánh tráo tư tưởng...gọi chung là thuật đánh tráo, điệu hổ ly sơn, thuyền cỏ mượn tên, dương đông kích tây, nói một đằng làm một nẻo, thả con tép bắt con tôm, giả ngu chứ không điên,...
Nhóm 2: Hành đông đe doạ, cưỡng ép, cản trở người khác thực hiện một hành vi nào đó.
Bao gồm các kỹ thuật: Giết gà cho khỉ sợ, chó rượt thì ngồi, nhà cháy thì cướp, đục nước thả câu, thuận tay bắt dê, mượn dao giết người, mận chết thay đào, rút củi đáy nồi,...
3. YÊU CẦU CỦA MỘT HÀNH VI ĐÊ TIỆN
3.1 XÁC ĐỊNH ĐƯỢC VỊ THẾ CỦA MÌNH
Các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi đê tiện cần phải xác định được vị trí của mình trong tranh luận, trong thương trường, chính trường và xã hội nói chung khi thực hiện hành vi đê tiện cụ thể nào đó. Căn cứ trên vị trí của mình, các chủ thể thực hiện hành vi đê tiện xác định rõ những biện pháp thích hợp cần dùng, cần áp dụng. Tránh trường hợp, chủ thể đang là thế yếu, đối phương là kẻ mạnh mà sử dụng các biện pháp đe doạ hoặc gây thù địch khác không cần thiết.
3.2 AM HIỂU SÂU SẮC VỀ CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐÊ TIỆN
Việc đào sâu nghiên cứu các kỹ thuật đê tiện mang lại lợi ích vô cùng lớn lao. Chủ thể thực hiện hành vi đê tiện nên cơ cấu lại các biện pháp đê tiện sao cho dễ thuộc, dễ nhớ nhằm vận dụng một cách có linh hoạt
Sơ đồ, quy trình vận dụng cần phải liên tục cải tiến mạnh mẽ, có cập nhật nhằm phù hợp với hoàn cảnh mới, điều kiện mới
Luôn đề cao vai trò cảnh giác và sáng tạo ra những chiêu thức, phương pháp, cách thức mới để phục vụ cho tình hình mới
3.3 TÍNH TƯƠNG CẬN GIỮA CÁC BIỆN PHÁP, PHƯƠNG PHÁP ĐÊ TIỆN
Chủ thể thực hiện hành vi đê tiện cần phải tìm ra những đặc điểm chung giữa các hành vi đê tiện. Những đặc điểm tương đối giống nhau, tương cận nhau phải là những đặc điểm cùng hỗ trợ cho nhau, không đồng thời là giống nhau và cũng không mâu thuẫn với nhau
Trong thực tế, một hành vi đê tiện không bao giờ là một hoạt động cô lẻ, chúng là một tổ hợp của nhiều hoạt động, cả về tính chất và mức độ phức tạp. Hành vi đê tiện không phải lúc nào cũng phản ảnh rõ được bản chất của một hành vi và giúp ta xác định rõ ràng đó là loại hành vi nào. Ngoại diên của phương pháp này có thể bao gồm phương pháp kia. Hoặc ngoại diên của hai phương pháp giao nhau có phần chung giống nhau. Ngoại diên chính là vòng tròn bao gồm những đặc điểm vốn có của một phương pháp đê tiện.
4. TRÌNH TỰ CỦA MỘT HÀNH VI ĐÊ TIỆN
4.1 XÁC ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP, KỸ THUẬT CẦN SỬ DỤNG
Trong vô vàn các phương pháp để thực hiện một hành vi đê tiện, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện cần:
+ Xác định một hoặc một số các phương pháp cụ thể dựa trên cơ sở mục tiêu đã định
+ Lựa chọn, dự trù các biện pháp kỹ thuật trong một phương pháp nhằm để triển khai một hành vi đê tiện cụ thể
+ Định hướng rõ mục tiêu trước khi thực hiện suy luận đê tiện và xác định điểm mạnh, yếu của đối phương sau khi triển khai bằng hành động cụ thể
4.2 LỰA CHỌN THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
Chủ thể cần phải lựa chọn thời gian và địa điểm thích hợp để ra tay. Dựa trên cơ sở những thông tin được thu thập từ đối tượng như lịch sinh hoạt, thói quen, lối sống, cá tính,...chủ thể thực hiện hành vi đê tiện chọn ra một không gian và thời gian hợp lý
Thời gian thực hiện hành vi đê tiện không được vượt quá thời gian trong kế hoạch. Khi thực hiện một hành vi đê tiện phải dứt khoát, quyết liệt và chỉ thực hiện một lần trong cùng một khoảng thời gian. Không nên chia nhỏ công việc thành nhiều phần và thực hiện nhiều lần trong nhiều khoảng thời gian khác nhau.
4.3 XÁC ĐỊNH ĐÚNG ĐỐI TƯỢNG VÀ THỰC HIỆN TRÊN ĐỐI TƯỢNG ĐÓ
Việc xác định đúng đối tượng giúp tránh các sai lầm về đối tượng và rút ngắn được thời gian thực hiện mốt hành vi đê tiện nào đó. Sai lầm về đối tượng dẫn đến sai lầm trong kế hoạch và mục tiêu. Khi ấy, việc bứt dây động rừng sẽ có thể xảy ra và không thể thực hiện hành vi đê tiện được nữa
4.4 THU DỌN TÀN CUỘC
Sau khi chủ thể thực hiện hành vi đê tiện xong. Dù chủ thể đã hoàn thành hoặc chưa hoàn thành, dù thành công hay thất bại, dù mục đích đã đạt hay chưa đạt thì chủ thể cần phải thu xếp tàn cuộc một cách thần tốc, kỹ lưỡng nhằm để che dấu thân phận của mình
Thường xuyên dò xét, xem xét, kiểm tra, thu thập những thông tin dư luận nhằm để tạo đường rút lui cho mình. Việt dò xét cần phải tránh sự phát giác của những người khác, ứng phó nhanh và kịp thời trước những biến cố, những sự thay đổi ngoài ý muốn
5. Ý NGHĨA
Hành vi đê tiện là kết quả của suy luận đê tiện, là sự quá trình thực tiễn hoá các suy luận đê tiện đã được cấu thành từ chủ thể thực hiện hành vi đê tiện. Việc nghiên cứu các phương pháp, kỹ thuật đê tiện giúp cho các chủ thể đê tiện có được những công cụ, phương tiện cần thiết nhằm để đạt được mục tiêu của mình