Lại xin nói một chút về cái năm tôi 12 tuổi, đoạn cuối của những ngày đẹp nhất của tôi.
Từ Noel đến trước Tết năm đó, một buổi chiều, cũng thứ 7. Khi tôi về đến nhà thì tia mắt tôi đã hướng về căn nhà ấy, nhà chị Vinh. Cửa đóng, tôi thấy lạnh ở ngực. Bước vào nhà, mẹ tôi đang ngồi ở chõng, tôi hỏi ngay, không kịp chào hỏi mẹ như mọi lần:
- Mẹ ơi, sao bên chị Vinh lại đóng cửa thế nhỉ?
Mẹ tôi thừa biết đứa con trai của mình. Mẹ rơm rớm nước mắt:
- Nó đi lấy chồng rồi, con ạ!
Mới nói có thế thôi, tôi òa lên khóc, khóc như một tiếng nổ, một cuộc nổ vỡ nào đó ở vũ trụ này. Mẹ tôi, chắc là muốn an ủi tôi, nói thêm ( không biết là có thật hay không):
- Trước khi cưới, nó cũng có sang để chào mẹ và nói rằng : bác nói với em Việt ( tên khai sinh của tôi) là chị Vinh gởi lời chào. Ngày nào em Việt lấy vợ thì nhớ nói cho chị biết để chị mừng cho em!
Tôi gục hẳn vào lòng mẹ tôi, khóc suốt buổi chiều, cho đến khi không biết là ở đâu xuất hiện bố tôi về. Tôi im lặng, không dám khóc nữa. Mẹ lau mặt cho tôi và bảo tôi xuống bếp lấy cơm ăn…
Hai mươi lăm năm sau, tức là năm 1959 ( câu chuyện vừa kể xảy ra năm 1934) cũng vào đúng cái mùa ấy. Một đêm, tôi ở Lý Quốc Sư - Hà Nội, có lẽ quá nửa khuya rồi, tôi trằn trọc nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh. Lạ lắm, bồn chồn kinh khủng, nhưng sợ động giấc ngủ của vợ con nên đành nằm im trên giường. Xin mở ngoặc một chút : tôi thừơng bị mất những câu thơ, có khi 2 hoặc 4 câu ( khi thì lục bát, song thất lục bát. Tôi vẫn cổ điển như thế, không có cách tân gì cả). Đêm nằm, những câu thơ chợt đến, tôi chủ quan cho rằng mai chép lại cũng được, rồi lại nằm, nhưng chỉ vài ba phút thậm chí một phút sau thôi, muốn nhớ lại cũng không thể nhớ được. Tôi rút kinh nghiệm, bao giờ đi ngủ cũng có tờ giấy và mẩu bút chì bên cạnh, bao giờ cũng nằm nghiêng về bên trái.
Trong cái đêm bồn chồn ấy, tôi chợt nghe tiếng văng vẳng bên tai như có ai nói, giọng phụ nữ, không phải giọng chị Vinh, không phải xa xôi lắm như tự kiếp nào chứ không phải của kiếp này. Vậy mà rất trong, rõ ràng, có lên xuống trầm bổng hẳn hoi, không phải như ta nói chuyện thường, cũng không phải giọng mẹ tôi, không phải bất cứ người nào, thánh thót êm ái lắm, giọng đọc chính tả . Rất đều đặn, nhịp nhàng từ đầu đến cuối. Tôi quơ giấy bút chép lại cái giọng đọc xa xôi kia. Cho đến câu cuối cùng, người tôi nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng, rất thảnh thơi. Sáng hôm sau, thức dậy tôi lại bàn bật đèn ( vì trời đã sáng nhưng trong nhà còn tối) ngồi tách những câu thơ ra, vì ban đêm, viết dưới ngọn đèn ngủ 6 oát mờ mờ, dòng nọ đè lên dòng kia, có khi hai ba dòng đè lên nhau. Mất cả tiếng đồng hồ mới tách chúng ra xong. “Lá Diêu Bông” đã ra đời như thế. Bài thơ ấy, cho đến bây giờ vẫn nguyên vẹn, không sửa chữa chữ nào cả. Sau đó, tôi tập hợp một số bài viết trong thời gian này, cùng với “Lá Diêu Bông” làm thành tập “ Về Kinh Bắc”. Tập thơ ấy gồm những khối bài, nhóm bài, đề tài khác nhau nhưng tựu trung lại vẫn là về Kinh Bắc, là sự nhớ lại thời xa xưa trên mảnh đất quê hương, từ kiếp trước đến kiếp này. Kết thúc tập thơ, tôi viết hai câu như thế này :
Bốn mươi bảy bài thơ tám nhịp
Tuần dâu chưa vợi khối ân tình
Từng bài thơ trong tập có thể tách riêng, nhưng sự thực, chúng đều nằm trong một khối thống nhất, một cõi-duy-nhất, trong đó, tôi cho rằng bài “ Lá Diêu Bông “ là bài thơ định mệnh của đời tôi.
Hoàng Cầm
[/QUOTE]