PHẦN THỨ BA: CÁC KỸ THUẬT ĐÊ TIỆN CỤ THỂ
CHƯƠNG 1: THUẬT NHẪN NHỤC
1. KHÁI NIỆM VỀ NHẪN NHỤC
Thuật nhẫn nhục là kỹ thuật đê tiện căn bản đầu tiên của người mới bước chân vào lãnh vực đê tiện với muôn vàn những sự hiểm nguy, tráo trở và khốc liệt. Nhịn nhục hay nhẫn nhục, tiếng Hán: "忍辱", có nghĩa là tổng hợp tất cả các biện pháp hữu dụng và cần thiết nhằm để chịu đựng và chậm phản ứng lại các hoạt động tấn công của kẻ khác. Thông thường, khi người khác công kích chúng ta bằng một câu nói, hay một hành động cụ thể, chúng ta thường phản ứng lại bằng một câu nói, mang nhiều tính chất mức độ khác nhau, như: mắng mỏ, trách cứ, chỉ trích, buồn bã, than trách, doạ nạt,...hay các hoạt động khác nhằm để đe doạ, tấn công lại đối tượng. Nhưng thuật nhịn nhục mà kẻ đê tiện tu luyện và đạt được là khả năng chống lại các cảm xúc nội tại bên trong, dẫn đến một hành vi kềm chế các lời nói hay hoạt động cụ thể nào đó.
Thuật nhẫn nhục là liệu pháp đi ngược lại với bản năng của con người. Bản năng con người cho thấy anh ta(hoặc cô ta) luôn phòng vệ khi bị người khác chơi xỏ. Tuy nhiên, bản năng phòng vệ này chỉ là bản năng sơ khai, bản tính động vật hoang dã khi con người còn trong quá trình tiến hoá, hoàn toàn không có lý trí con người. Do không có sự đầu tư về mặt lý trí trong các kỹ thuật phòng vệ nên anh ta(cô ta) dễ mắc các sai lầm và thường bị kẻ thù lợi dụng những sai lầm đó. "Giận quá mất khôn" là lời dạy thâm thuý của cha ông chúng ta từ bao đời nay, là lời trăn trối cuối cùng của người viết tác phẩm này.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẬT NHẪN NHỤC
2.1 QUY LUẬT LƯỢNG-CHẤT
Quy luật lượng chất mang tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn trong các hoạt động đê tiện của con người. Chúng ta không thể có một suy luận đê tiện hoàn hảo nếu không có sự tích luỹ về lượng và sự biến đổi về chất. Ví dụ: Anh A không thể có suy luận đê tiện, ngôn ngữ đê tiện và hành động đê tiện nếu không bị người khác chơi xỏ. Sự chơi xỏ của người khác tác động đến anh A ngày càng được tích luỹ đến một lúc nào đó, anh A biến đổi về chất và thực hiện một hành vi đê tiện cụ thể. Có thể nói, quy luật lượng chất là điều kiện, cơ sở tiên quyết của thuật nhịn nhục. Từ đó, anh A không thể làm bất cứ vị gì nếu không có sự chơi xỏ của kẻ khác.
Nhẫn nhục là một quá trình tích luỹ về lượng nhằm để tạo bước nhảy vọt về chất. Quá trình này rất đau khổ, rất gian nan, rất dai dẳng, có thể hành hạ thể xác và tinh thần của chủ thể cần thực hiện hành vi đê tiện nào đó.Qui luật lượng chất còn cho thấy: khi một người đã biến đổi về chất, tức là đã kết thúc quá trình nhịn nhục. Lúc này, thuật nhịn nhục đã hoàn tất vai trò của nó. Ví dụ: Anh A vô cùng nhịn nhục trước những hành động và lời nói của chị B. Đó là quá trình tích luỹ về lượng của anh A. Khi anh A có sẵn một kế hoạch hoàn chỉnh trong đầu, một suy luận đê tiện hoàn hảo. Lúc đó, thuật nhẫn nhục đã hoàn tất sứ mệnh của nó
2.2 NGUYÊN TẮC TRÁNH SAI LẦM
Nguyên tắc tránh sai lầm là nguyên tắc cơ bản trong các hoạt động đê tiện. Sai lầm có rất nhiều dạng: do nóng vội, do chủ quan, do sai lầm về đối tượng....mà nguyên nhân là "giận quá mất khôn". Sự thiếu kiên nhẫn, thiếu tính nhẫn nhục là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến các loại sai lầm nói trên
Sai lầm do nóng vội là một loại sai lầm đặc trưng của các chủ thể khi tiến hành các hoạt động đê tiện, do chưa hoạch định một cách kỹ lưỡng các chiến lược, chưa nhẫn nhục đầy đủ mà đã tự ý lên kế hoạch hành động.
Sai lầm do chủ quan là một loại sai lầm mà các chủ thể thực hiện hành vi đê tiện vì quá tự tin cho rằng: không cần hoạt động nhịn nhục, chủ thể cũng có thể trừng trị kẻ đã từng chơi xỏ anh ta. Loại sai lầm này có thể giết chết anh ta nếu như anh ta chưa có một mưu tín thật kỹ càng từ trước.
Sai lầm về đối tượng là một loại sai lầm mà các chủ thể thực hiện hành vi đê tiện, do giận quá nên lý trí đã mất hết. Đúng ra, anh ta phải thực hiện hành vi đê tiện lên chính người đã từng đê tiện với anh, nhưng anh ta lại thực hiện hành vi đê tiện đối với một người khác. Đây là dạng hiểu lầm đối tượng. Một dạng khác, là anh ta thực hiện hành vi đê tiện lên đúng đối tượng, nhưng ngại nổi, đối tượng đó là bề trên của anh, như: sếp của anh, bố vợ tương lai của anh,...Đây là dạng chưa tìm hiểu đối tượng.
Tóm lại, từ nguyên tắc tránh sai lầm dẫn đến việc phải nhẫn nhục để tránh sai lầm
3. PHÂN LOẠI CẤP ĐỘ VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA THUẬT NHẪN NHỤC
Căn cứ trên cấp độ mà có những phương pháp và thủ thuật nhẫn nhục khác nhau, như: thuật nhẫn nhục sơ cấp, thuật nhẫn nhục trung cấp và thuật nhẫn nhục thượng cấp.
3.1 THUẬT NHẪN NHỤC SƠ CẤP
CẤP ĐỘ 1: NHẪN NHỤC LÀ PHẢI NỞ NỤ CƯỜI.
Thuật nhẫn nhục sơ cấp là giai đoạn đầu tiên của người luyện thuật này. Ở giai đoạn này, người thực hiện thuật nhẫn nhục phải làm cho đối phương tin tưởng rằng: ta là bạn bè, ta tốt và rất thân thiện. Từ đó, đối phương lơ là, không phòng bị, không có sự mưu tính kế sách để đối phó với ta. Tuy vẻ ngoài cười nói, nhưng bên trong, ta đã chuẩn bị hết kế hoạch và dự trù các phương án để giải quyết đối tượng. Đối tượng có thể sử dụng những câu nói, hành động xúc phạm đến nhân phẩm, tư cách của ta. Nhưng ta phải luôn nở một nụ cười và sử dụng những lời lẽ ngon ngọt nhưng trong lòng chứa gươm đao
Phương pháp chủ yếu của thuật này là Tiếu Lý Tàng Đao
Trong Tam Thập Lục Kế, Tôn Tử viết:
"Thả diệt sân trung hoả
Mưu ma tiếu lý đao
Bất như lai ẩm tửu
Ổn ngoạ tuý đầu đài."
Mấu chốt trong phương pháp này là "Tiếu", tức là "nụ cười". Giữa 2 mặt nội dung và hình thức của chủ thể thực hiện hành vi đê tiện là trái ngược nhau hoàn toàn. Trong nóng thì ngoài mát, trong rắn thì ngoài mềm, trong điên loạn nhưng ngoài tươi tỉnh,...Thông qua ngôn ngữ đê tiện, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện lựa chọn những câu chữ hoa mỹ, lời hay ý đẹp để tâng bốc và làm đẹp lòng đối tượng, dù cho đối tượng có đối xử tệ bạc với ta.
Xét về mặt hành vi, ta luôn làm bộ thuận theo ý người, thành tâm phục tùng nhưng bên trong ta phải chuẩn bị kế hoạch và đợi thời cơ chín mùi. Phương pháp này có nội dung trọng tâm là sự chịu đựng và nhẫn nhục nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch ban đầu. Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện thì cần phải nghe mau và nói chậm, tức là phải nghe cho thật mau những điều chua chát nhất và hãy nói thật chậm để đừng mắc sai lầm.
Trong thực tiễn kinh doanh, khoanh tay và cuối thấp đầu xuống càng nhiều thì khả năng móc túi người khác càng cao.Phương pháp này được ứng dụng rất nhiều trong các lĩnh vực ngân hàng, tiếp viên hàng không, tiếp thị sản phẩm,...Dù các nhân viên ngân hàng, tiếp viên hàng không hay những nhân viên tiếp thị, quảng cáo sản phẩm thường bị khách hàng đối xử lạnh lùng, nhưng họ vẫn luôn nở nụ cười. Người ta đã thống kê được rằng: ở những quầy có nhân viên ngân hàng hay nở nụ cười đẹp với khách, thì nơi đó có số dư nợ tăng cao. Khi tiến hành thống kê thu nhập, người ta thấy những tiếp viên phục vụ nhà hàng có thu nhập cao hơn nhờ tiền bo của khách luôn biết cách chìu chuộng và lấy lòng
Từ đó, có thể nói :Tiếu Lý Tàng Đao là một phương thức nguỵ trang hiệu quả, giúp đẩy nhanh quá trình tin tưởng của người khác với mình; hoặc làm cho đối tượng có hành vi công kích ta không đạt được ý đồ của họ. Kế này sử dụng thủ pháp 2 mặt vô cùng hiệu quả.
3.2 THUẬT NHẪN NHỤC TRUNG CẤP
CẤP ĐỘ 2: NHẪN NHỤC LÀ PHẢI LỢI DỤNG LÒNG THƯƠNG HẠI
Thuật nhẫn nhục trung cấp là giai đoan thứ 2, sau thuật nhẫn nhục sơ cấp. Ở cấp độ này, người thực hiện hành vi đê tiện không chỉ Tiếu Lý Tàng Đao mà còn phải biết Khổ Nhục Kế, lợi dụng tính chất bi thương của hoàn cảnh, của địa vị, của thân phận mình nhằm lừa gạt đối phương, làm cho đối phương phải khinh thường và coi nhẹ bản thân mình. Nếu như hoàn cảnh, địa vị, thân phận chưa thật bi thương thì phải làm cho nó bi thương hơn. Tự mình làm hại chính bản thân mình thì gọi là "khổ nhục".
Phương pháp chính của thuật này là Khổ Nhục Kế
Ngày xưa, Câu Tiễn ăn phân là một ví dụ điển hình. Kế này công tâm và gian trá vô cùng.
Năm 499 TCN, Ngô Phù Sai đem quân đánh câu tiễn để báo thù cho cha mình là Ngô Hạp Lư .Trong lúc, Ngô Phù Sai ngày đêm luyện quân sĩ, Câu Tiễn muốn mang quân ra đánh trước khi quân Ngô xuất trận. Phạm Lãi can nhưng Câu Tiễn không nghe, nên quân Việt đã thua to ở Phù Tiêu.Câu Tiễn bèn đem 5000 quân còn lại giữ và trốn tránh ở núi Cối Kê.
Phù Sai đuổi đến, bao vây Cối Kê. Câu Tiễn hỏi kế Phạm Lãi. Phạm Lãi khuyên ông dùng lời lẽ khiêm nhuợng, lấy lễ hậu để lấy lòng vua Ngô; nếu vua Ngô không chịu thì phải thân hành đến hầu hạ.Câu Tiễn nghe theo, bèn sai đại phu Văn Chủng đến cầu hòa với Ngô. Phù Sai sắp ưng thuận thì Ngũ Tử Tư can không nên theo. Câu Tiễn đành phải xin đầu hàng, sai Chủng đem gái đẹp, của quý lẻn đến đưa cho Bá Hi. Bá Hi nhận rồi nói giúp với vua Ngô. Phù Sai nghe theo, cho nước Việt đầu hàng. Nước Việt không bị tiêu diệt nhưng Câu Tiễn bị bắt về nước Ngô. Sau đó ông phải chịu nhiều khổ nhục kể cả việc nếm phân của Phù Sai
Trích từ Bách Khoa Toàn Thư
Theo thuật này, nhẫn nhục có 2 phương pháp:
-Phương pháp 1: Lời dụng điều kiện, hoàn cảnh bất lợi mà từ đó, kêu gọi lòng thương hại. Cách này thường được sử dụng trong các kiểu nguy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại, như "Anh ấy không có giết người bằng lúa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội! Anh ấy đang phải trải qua giai đoạn khủng hoảng về tinh thần."
-Phương pháp 2: Tự tạo ra điều kiện, hoàn cảnh bất lợi, hoặc tự làm hại chính mình. Cách này thường được sử dụng trong trường hợp đối phương với ta, rơi vào tình cảnh "thắng và thua", đối phương là đại thắng, còn ta là đại bại. Địa vị của đối phương cao hơn ta, sức mạnh của đối phương mạnh hơn ta, cục diện không nghiên về phía ta, như: Câu tiễn phải ăn phân của Phù Sai, Tôn Tử tự đập gãy chân của mình để cho Bàng Quyên nghi ngờ ông bị điên
3.3 THUẬT NHẪN NHỤC THƯỢNG CẤP
CẤP ĐỘ 3: NHẪN NHỤC LÀ PHẢI GIẢ ĐIÊN
Thuật nhẫn nhục thượng cấp là giai đoạn cuối cùng của thuật nhẫn nhục. Đây chính là đỉnh cao của thuật này, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện phải giả si bất điên. Trong binh pháp Tôn Tử, gọi là Tịnh Chiến Kế, tức là nội tâm vô cùng trống rỗng nhưng cũng vô cùng yên lặng và thanh tịnh. Trong nội tâm của người thực hiện hành vi đê tiện hoàn toàn không có bóng dáng của bãn ngã "tôi", tất cả những sự xáo trộn, điên đảo của tâm thức do hoàn cảnh mang đến đều bị loại bỏ, thay vào đó, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện sẽ tiến hành một loạt các hành động điên rồ, hồ đồ để không được chú ý đến..Hoặc giả, bất động một cách thanh tịnh trước mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống.
Ví dụ:
Ở cấp độ 1. Một người nhân viên ngân hàng phải luôn tươi cười với khách, dù bị quát mắng
Ở cấp độ 2. Dù bị khách hàng quát nạt, phun nước bọt vào mặt thì không được phản ứng lại, tay lau nước đờm giải trên mặt
Ở cấp độ 3. Dù bị phun nước bọt vào mặt thì vẫn tươi cười, khen ngợi khách hàng và không lau nước miếng...Cứ để vậy cho nó tự khô...
Rõ ràng, đỉnh cao của thuật nhẫn nhục là ở cấp độ 3. Tâm thức của người này vốn không có sự xáo trộn, nhiếp tâm là vậy...Họ hoàn toàn thanh tịnh tuyệt đối, bất chấp sự náo động của thế giới xung quanh, bất chấp sự tác động xấu của nó lên chính bản thân của mình.
Phương pháp là: Giả si bất điên
Mấu chốt ở đây là "giả si".Về mặt hình thức biểu hiện ra bên ngoài, chủ thể thực hiện hành vi đê tiện thường giả làm người mất trí, vô dụng, không quản thúc được, lười biếng, hoặc tỏ ra bất động trước sự lăng mạ, sĩ nhục của người khác,...Nhưng bên trong hoàn toàn thanh tịnh, không có cảm xúc, vô cảm đến mức tuyệt đối, chỉ còn có duy nhất một ý nghĩ là phải hoạch định và triển khai một hành vi thật đê tiện mà thôi!
"Giả Si". Về mặt nội dung, có ba hàm nghĩa như sau:
1/ Đại Trí Nhược Ngu
2/ Thâm Tàng Nhược Hư
3/ Ngu Binh Tất Thắng
Đại trí nhược ngu, có nghĩa là người trí nhưng giả ngu. Áp dụng trong trường hợp, mà mọi sự xung quanh đều bất lợi cho mình. Đối phương sẽ giết nếu như thấy ta giỏi hơn, ta có trí có tài hơn. Từ đó, ta dễ ghét hơn, ta dễ bị giết hơn. Đại trí nhược ngu còn có thể hiểu là tránh xưng hùng, xưng bá, tránh ta đây, tự cao, tự đại, tự ái...Phải luôn nở nụ cười trước mọi sự mắng mỏ, sỉ nhục.
Thâm tàng nhược hư, có nghĩa là nội tâm sâu kín, ẩn tàng, chờ đợi và không hiển lộ cho người khác biết.Đây là một cách nguỵ trang, làm cho đối phương lơ là, mất cảnh giác. Thâm tàng nhược hư là phải tự lừa dối luôn cả bản thân, lừa dối chính mình
Ngu Binh Tất Thắng, có nghĩa là dấu ý đồ đen tối, không chỉ mình giả ngu mà người khác cũng phải ngu theo mình. Như Tôn Tử từng giả điên, giả khùng để tránh sự đố kỵ của Bàng Quyên. Bàng Quyên cũng ngu theo ông, vì y tin rằng Tôn Tử điên thật. Bàng Quyên vốn là một kẻ rất thông minh, nhưng cuối cùng ông ta cũng thất bại bởi sự ngu dốt của chính mình. Trong quân sự, ngu binh tất tắt còn có ý nghĩa là không cho kẻ khác biết, nhất là những tướng quân thân cận bên mình.
4. Ý NGHĨA CỦA THUẬT NHẪN NHỤC
Nhịn nhục là một kỹ thuật vô cùng quan trọng, mang ý nghĩa to lớn trong hàng loạt các kỹ thuật đê tiện của tác phẩm. Không có sự tích luỹ về lượng thì chủ thể thực hiện hành vi đê tiện không thể biến đổi về chất và không thể đề đạt các suy luận đê tiện hiệu quả. Do đó, Nhẫn nhục là một phương tiện nhằm để phục vụ cho chủ thể thực hiện hành vi đê tiện có thể tích luỹ đủ về lượng của mình
Thuật nhẫn nhục giúp tránh sai lầm trong khi triển khai các hành vi đê tiện cụ thể vào đời sống xã hội, mang ý nghĩa lớn trong công tác phòng ngừa các tác hại do sai lầm đối tượng và các tác hại do sai lầm chủ quan, duy ý chí và nóng vội. Giúp bảo vệ cho các chủ thể thực hiện hành vi đê tiện có thể thực hiện sự đê tiện của mình một cách có hiệu quả nhất
Thuật nhẫn nhục là một quá trình dài và đầy đau khổ của các chủ thể, là một chương quan trọng trong các biện pháp, kỹ thuật đê tiện, mà dựa vào đó, các chủ thể thực hiện hành vi đê tiện sẽ thực tập cách điều hoà các giác quan và tập trung trí lực vào việc kềm chế bản thân khi chưa có sự tích luỹ về lượng