Thi Ẩm Lâu
Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phiên bản có thể in

+- Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum)
+-- Diễn đàn: Tửu Lầu (https://thiamlau.com/forum/forum-5.html)
+--- Diễn đàn: Trà Dư Tửu Hậu (https://thiamlau.com/forum/forum-8.html)
+--- Chủ đề: Những bóng hồng trong thơ nhạc (/thread-790.html)



Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 15-11-2011

Đặng Thế Phong: “Dương thế bao la sầu...”

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Đặng Thế Phong là một trường hợp đặc biệt. Ông là một trong rất ít nhạc sĩ tiên phong của thời kỳ tân nhạc còn phôi thai, chết rất trẻ nhưng kịp để lại cho đời 3 ca khúc bất hủ.

Người viết có may mắn được gặp gỡ hai người biết khá rõ về cuộc đời Đặng Thế Phong. Đó là nhạc sĩ Lê Hoàng Long, tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa (hiện sống tại TP.HCM) và nhà văn Phạm Cao Củng (gặp cách đây khoảng 10 năm, khi ông từ Mỹ về thăm quê hương, qua sự giới thiệu của họa sĩ Mạc Chánh Hòa). Theo nhà văn Phạm Cao Củng thì Đặng Thế Phong là một chàng trai rất đẹp, đàn hay hát giỏi, thích hóa trang thành thiếu nữ trong những vở kịch ngắn. Anh diễn rất đạt nên ai cũng yêu thích, nhất là phái nữ.

Nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì khẳng định người yêu của Đặng Thế Phong tên Tuyết. Tuyết không đẹp nhưng có duyên. Cô là con gái một chủ tiệm buôn bán “gối màn chăn drap” ở chợ Sắt (Nam Định). Vốn tính nhút nhát, Đặng Thế Phong nghĩ mãi cũng không biết làm cách nào để “tiếp cận” người đẹp. Cuối cùng, anh vờ làm khách hàng vô hỏi giá rồi... nhét vội vào tay nàng một lá thư. Chẳng biết nội dung bức thư đầu tiên này mùi mẫn như thế nào mà sau đó cô Tuyết đã cự tuyệt một anh thông phán trẻ làm việc ở Tòa Đốc lý Nam Định, khi anh này dạm hỏi.

Thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Trước khi quen và yêu Tuyết, Đặng Thế Phong đã sáng tác ca khúc đầu tay Đêm thu trong một đêm cắm trại của Hướng đạo sinh (1940). Ca từ của bản nhạc rất trong trẻo, lạc quan... Còn bản Con thuyền không bến thì được sáng tác ở Phủ Lạng Thương (Bắc Giang) khi tình yêu giữa nhạc sĩ và cô Tuyết đang độ chín mùi.

[Hình: nhavan.jpg]

Nhạc sĩ Đặng Thế Phong - Ảnh: Tư Liệu

Một hôm, ông cùng một nhóm bạn văn nghệ sĩ lên Bắc Giang chơi, nhân đó họ tổ chức một đêm đi thuyền trên sông Thương. Cùng lúc đó, chàng nhận được tin Tuyết ngã bệnh nơi quê nhà. Lòng dạ bồn chồn, xót xa, Đặng Thế Phong ôm đàn bước vào khoang thuyền, bỏ mặc các bạn đang đùa vui. Khi đêm sắp tàn thì bản nhạc hoàn tất với những lời ai oán não nùng gửi về... chân mây: “Đêm nay thu sang cùng heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây... như nhớ thương ai chùng tơ lòng...”, rồi “... Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng. Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng...”.

Sớm hôm sau, Đặng Thế Phong tức tốc trở về Hà Nội, người đầu tiên được nghe chính tác giả hát ca khúc này là người yêu của ông. Cô Tuyết hết sức cảm động. Chưa hết, chỉ ít lâu sau, Con thuyền không bến ra mắt khán giả thủ đô tại Nhà hát Lớn Hà Nội qua tiếng hát của nữ ca sĩ Vũ Thị Hiển. Từ Nam Định, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội, ngồi cạnh Đặng Thế Phong, ngay ở hàng ghế đầu để nghe bài hát “người ấy làm riêng cho mình”. Hạnh phúc còn nhân đôi bởi chỉ khoảng một tuần sau, tại rạp Olympia (phố Hàng Da, Hà Nội), cô Tuyết còn được chứng kiến người mình yêu tự đệm đàn, tự hát ca khúc này mà ánh mắt luôn trìu mến hướng về chỗ cô ngồi, trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của khán giả.

Trời thu gieo buồn lây

Sau khi từ Bắc Giang về, Đặng Thế Phong đã nhuốm bệnh. Thời đó, bệnh lao là một bệnh nan y và luôn bị những người chung quanh xa lánh.

Bệnh tình ngày càng trầm trọng, ở tỉnh không đủ điều kiện chữa trị, Đặng Thế Phong phải chuyển lên Hà Nội, sống chung với ông chú họ Nguyễn Trường Thọ trong một căn gác ở làng hoa Ngọc Hà (ngoại ô Hà Nội). Tuy vậy, tình trạng vẫn không khá hơn chút nào. Gia cảnh nghèo nàn, tiền bạc phải vay mượn để chữa trị, cuộc sống kham khổ làm cho tình cảnh của nhạc sĩ càng thêm nghiệt ngã... Cô Tuyết vì phải phụ giúp gia đình chuyện buôn bán ở thành Nam nên vài hôm mới lên Hà Nội chăm sóc người yêu rồi lại tất tả quay về.

Tháng 7 mưa ngâu. Cảnh buồn tê tái. Đặng Thế Phong nhớ Tuyết quay quắt... Nhạc hứng tuôn trào, chàng gượng ngồi dậy, ôm đàn và viết nên khúc nhạc buồn da diết: “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong hơi thu, ai khóc ai than hờ... Trời thu đến nơi đây gieo buồn lây. Lộng vắng bốn bề không liếp che gió về. Ai nức nở quên đời châu buông mau, dương thế bao la sầu...”. Bản nhạc được chàng đặt tên là Vạn cổ sầu. Bạn bè góp ý nhạc thì hay nhưng cái tựa bi thảm quá. Cuối cùng, tên bản nhạc được đổi thành Giọt mưa thu.

Cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi, Đặng Thế Phong nhờ ông Thọ đưa về Nam Định. Từ đấy cho đến lúc Đặng Thế Phong lìa đời, cô Tuyết lúc nào cũng túc trực bên giường bệnh để chăm sóc ông, khiến những người quen biết đều xót xa thương cảm cho một mối tình vô vọng lẫn nể phục tính cách cao thượng chung thủy của Tuyết.

Tang lễ của chàng nhạc sĩ 24 tuổi ấy được rất nhiều thanh niên nam nữ của thành Nam tham dự. Ngoài việc đưa tiễn một người con tài hoa nổi tiếng của quê hương, họ còn muốn chia sẻ và tỏ lòng trân trọng đến với cô thiếu nữ mặc áo đại tang đi sau linh cữu của chàng (việc này được phép của cả hai gia đình).

Mã:
Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại TP.Nam Định. Cha là Đặng Hiển Thế - thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ Đặng Thế Phong mất sớm, hoàn cảnh gia đình quá túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ dở việc học (đang học năm thứ hai bậc thành chung - tương đương lớp 7 bây giờ) để lên Hà Nội tìm kế sinh nhai.

Với chất nghệ sĩ thiên phú và tư chất cực kỳ thông minh, Đặng Thế Phong đã “len” vào được Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (học dự thính). Ở Hà Nội, Đặng Thế Phong vừa học vẽ vừa thực hành để nuôi thân. Ông chuyên vẽ minh họa cho tờ báo Học sinh do nhà văn chuyên viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng làm chủ nhiệm.

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)


RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 17-11-2011

Ngọc Lan dòng suối tơ vương

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được ghi nhận là một trong những người đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, còn người bạn đời của ông - ca sĩ Minh Trang - cũng được cho là một trong những ca sĩ tiên phong của làng ca nhạc Việt.

Tiếng hát “lá ngọc cành vàng”

Trước khi gặp nhau, Dương Thiệu Tước và Minh Trang đều xuất thân từ những gia đình “danh gia vọng tộc”.

[Hình: BOnghong1.jpg]

Ca sĩ Minh Trang thời xuân nữ

Dương Thiệu Tước sinh năm 1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Ông là cháu nội của cụ nghè Dương Khuê. Ở giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, trong khi nhiều người mượn những bài hát phương Tây rồi đặt lời Việt cho dễ hát thì ông lại cả gan viết “lời Tây theo điệu ta”.

Dương Thiệu Tước đánh đàn guitar hawaienne rất giỏi, ông còn là chủ nhân của một cửa tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn. Trong sinh hoạt hằng tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d'aimer (Thú yêu đương), Souvenance (Hồi niệm), Ton Doux Sourire (Nụ cười êm ái của em)... Lời ca của những bài này do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh) soạn bằng Pháp ngữ. Ông từng tuyên bố: "Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương'' (Báo Việt Nhạc số 5, ngày 16.10.1948)...

Còn cô Nguyễn Thị Ngọc Trâm (tên thật của Minh Trang) là con gái của quan Tổng đốc Bình Định Nguyễn Hy (sau này ông còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, rồi Thượng thư Bộ Hình). Ngọc Trâm còn là cháu ngoại của công chúa Mỹ Luông (còn gọi là Bà Chúa Nhất) - em ruột vua Thành Thái... Ngọc Trâm chào đời năm 1921 trong một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự (Huế). Như một định mệnh, 25 năm sau, một bài hát bất hủ mang tên Đêm tàn Bến Ngự của một nhạc sĩ tài hoa ra đời mà tên tuổi của ông sẽ gắn liền với cuộc đời của cô bé Ngọc Trâm sau này.

[Hình: BOnghong2.jpg]

Ca sĩ Minh Trang lúc về chiều - Ảnh: tư liệu

Thời thiếu nữ, ngoài sắc đẹp trời cho, Ngọc Trâm còn sở hữu một giọng hát thiên phú. Những năm học tiểu học ở trường dòng Jeanne d’Arc, rồi trung học ở Lycée Khải Định (Huế) thập niên 1930, tiếng hát của cô làm cho biết bao thầy cô, bạn bè cùng trường ngây ngất. Dĩ nhiên, đó là những bài hát Pháp, bởi lúc đó chưa có bài hát nào mà bây giờ chúng ta gọi là “nhạc tiền chiến”…

Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần (nên nhớ vào lúc đó rất hiếm phụ nữ đỗ đạt như thế), Ngọc Trâm kết hôn với một giáo sư nổi tiếng của đất thần kinh: giáo sư Ưng Quả (cháu nội của Tuy Lý vương Miên Trinh)… Nhưng chỉ mấy năm hương lửa mặn nồng, giáo sư Ưng Quả qua đời trong giai đoạn chuyển mình của đất nước, chế độ phong kiến cáo chung. Lúc này, giai cấp quan lại, thượng lưu không còn được ưu đãi, cuộc sống của họ trở nên khó khăn… Năm 1948, Ngọc Trâm đưa 2 người con vào Sài Gòn dự thi và trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên cho Đài phát thanh Pháp Á. Công việc của cô là dịch những bản tin từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và đọc những bản tin đó trên làn sóng.

Trong những lần dịch tin, Ngọc Trâm thường nghêu ngao những bài hát Việt mới thịnh hành gần đây như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong, sáng tác năm 1939), Tiếng xưa (1940), Đêm tàn Bến Ngự (1946) của Dương Thiệu Tước... Hát chơi vớ vẩn thế thôi, vậy mà tiếng hát ấy đã làm cả đài phát thanh ngẩn ngơ. Một hôm, ông Hoàng Cao Tăng - chủ sự Phòng Văn nghệ chợt đề nghị Ngọc Trâm thử hát trên sóng phát thanh một bài. Sau những đắn đo và cả những lời động viên, khuyến khích, tiếng hát của… nữ ca sĩ Minh Trang lần đầu tiên gửi đến quý thính giả Đài Pháp Á qua ca khúc Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Minh Trang hát hay đến nỗi đài phát thanh quyết định trả “cát sê” ngay, không kể tiền lương...

Cũng cần nói thêm, do ngại ngùng nên Ngọc Trâm không dám hát với tên thật mà ghép tên của hai người con (Bửu Minh và Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang) thành nghệ danh (Đoan Trang sau này trở thành nữ ca sĩ Quỳnh Giao ở hải ngoại).

Từ đó, tiếng hát của nữ ca sĩ Minh Trang theo sóng phát thanh của Đài Pháp Á lan tỏa khắp nơi. Năm 1949, chính Thủ hiến Bắc kỳ Nguyễn Hữu Trí gửi công văn mời đích danh ca sĩ Minh Trang tham dự Hội chợ đấu xảo tại Hà Nội. Đây là dịp để các nhạc sĩ hào hoa xứ Bắc kéo nhau đến chiêm ngưỡng nhan sắc của “giọng hát vàng phương Nam”. Và định mệnh đã xuống tay khi trong số những tài tử ấy có mặt Dương Thiệu Tước. Tuy đã có hai mặt con nhưng Minh Trang lúc ấy vẫn giữ được một vẻ đẹp quý phái “chim sa, cá lặn”.

Duyên nợ ba sinh

Đúng 60 năm sau (2009), ở tuổi chín mươi, bà Minh Trang kể lại với nhà thơ Du Tử Lê rằng: “Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn… lăng xăng, líu lo, rối rít, ông ấy (Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Trước khi gặp gỡ, tôi đã từng hát nhạc của ông ấy nên tôi cũng rất ao ước được gặp mặt con người tài hoa này”. Thế rồi “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”...

Khi Minh Trang trở lại Sài Gòn, chỉ ít ngày sau nàng nhận được thư tỏ tình của tác giả Tiếng xưa. Có lẽ vẻ lạnh lùng, ít nói của ông khi cùng các bạn vây quanh Minh Trang là do ông tự mặc cảm mình đã có vợ (19 tuổi, ông lập gia đình với bà Lương Thị Thuần, cũng xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Thời đó việc kết hôn thường được các cụ dàn xếp theo truyền thống “môn đăng hộ đối”. Ông bà đã có 3 con gái và 2 con trai). Thế nhưng khi Minh Trang như cánh chim vút bay xa thì ông không thể dối lòng được nữa, ông thật sự bị “hớp hồn” bởi vẻ đẹp và giọng hát của nàng. Những cánh thư liên tiếp qua lại giữa hai miền. Những ca khúc ông sáng tác trong giai đoạn này do Nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) xuất bản, ông không còn đứng tên đơn lẻ nữa, mà ghi “Nhạc và lời: Dương Thiệu Tước - Minh Trang”. Đó là những ca khúc bất hủ, tiêu biểu như Bóng chiều xưa, Buồn xa vắng, Khúc nhạc dưới trăng, Ôi quê xưa, Vui xuân...

Nữ ca sĩ Minh Trang cũng kể lại rằng, trước khi nhận lời cầu hôn của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, chính bà đã bay ra Hà Nội để gặp người vợ trước của ông này và thông báo quyết định của hai người. “Có thể không có một người phụ nữ thứ hai, nhất là ở thời đó, hành xử như tôi. Nhưng đó là tôi, cách của tôi: tự tin và tự trọng!” - bà nói.

Khi hai người chính thức chung sống ở Sài Gòn, ông làm tặng vợ mình ca khúc Ngọc Lan. “Ngọc Lan” là do tên Ngọc Trâm của bà. Nếu ai có bản gốc của Nhà xuất bản Tinh Hoa (1953) sẽ thấy tất cả những chữ Ngọc Lan trong bài hát đều được viết hoa, để phân biệt đây là tên người chứ không phải là tên loài hoa: “Ngọc Lan, dòng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Ngọc Lan, giọng ướp men thơ, mát êm làn lụa bông là. Ngọc Lan, trầm ngát thu hương, bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương... (Ngọc Lan).

Trích dẫn:Sau 25 năm chung sống, đôi tài tử giai nhân có thêm 5 người con (1 trai, 4 gái). Cùng với Bửu Minh và Đoan Trang, tất cả đều được “bố Tước” đào tạo bài bản ở Trường quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Sau năm 1975, bà Minh Trang và các con sang định cư ở Mỹ. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ở lại và qua đời vào ngày 1.8.1995 tại TP.HCM, thọ 80 tuổi. Bà Minh Trang mất ngày 17.8.2010 tại California (Mỹ), thọ 90 tuổi.

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)



RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 19-11-2011

Thoáng gặp, thoáng yêu trong nắng chiều

Có thể nói nhạc phẩm Nắng chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy - rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Trong một lần ngồi uống bia ở 81 Trần Quốc Thảo (TP.HCM), anh bạn vong niên của tôi - nhà thơ Mịch La Phong khăng khăng bảo rằng ca khúc Nắng chiều là do Lê Trọng Nguyễn “cóp” lại từ một ca khúc nước ngoài. Rồi anh hát bài này bằng tiếng Anh, giọng… Quảng Nam nghe rất buồn cười: “Ai rí mem bờ tú du ờ gần. Xờm thài a crái in đơ mun lai. Goen í vơ ning sơ rúm bi sần. Ón rai lầu mí thói ờ lền thai…”. Tôi phản đối: “Theo nhiều tài liệu thì Nắng chiều không chỉ có bản tiếng Anh mà còn cả tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Thái Lan và cả tiếng Campuchia nữa…”. Qua bài này, người viết cố gắng làm sáng tỏ sự ngộ nhận không chỉ của bạn tôi mà có lẽ còn của nhiều người nữa.

[Hình: p14-15a3-Le-trong-nguyen.jpg]

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn - Ảnh: tư liệu

Lê Trọng Nguyễn sinh năm 1926 tại Điện Bàn (Quảng Nam). Ông tên thật là Lê Trọng, còn chữ Nguyễn là họ của mẹ (sau này vợ ông cũng ghép tên ông vào trước tên mình: Lê Trọng Nguyễn Thị Nga). Cha mất sớm, bà mẹ trẻ chấp nhận ở góa để nuôi ông và người em gái cho đến lúc trưởng thành… Có lẽ cơ duyên để ông đến với âm nhạc là do có một thời kỳ (1942-1945) ông sống ở Hà Nội và làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Sau này, ông học hàm thụ Trường École Universelle (Pháp) và trở thành hội viên Hội Nhạc sĩ Pháp SACEM (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique). Ca khúc đầu tay Ngày mai trời lại sáng được viết năm 1946. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh (Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà giang, Sao đêm…). Tuy nhiên, nói đến Lê Trọng Nguyễn là người ta nghĩ ngay đến ca khúc Nắng chiều.

Lai bóng hồng trong một bản nhạc

Chất “bột” để “gột nên hồ” đầu tiên cho Nắng chiều là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì. Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.

Một thời gian sau, Lê Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh.

Chính từ những chuyến đi chơi này mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất bột” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa khôi của đất thần kinh. Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua. Bóng dáng thướt tha ấy “ngược sáng” trong ánh tà dương. Nhìn “cô này”, bất giác Nguyễn… nhớ “cô kia” quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều. Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa. Khi đến cuối thôn chân bước không hồn. Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…”. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong Nắng chiều (1952).

Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim Tước…) nên khi bản Nắng chiều được xuất bản, chính Minh Trang là người hát và thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng chiều lan tỏa khắp Trung - Nam.

Nắng chiều và hai bóng hồng… ngoại

Năm 1957 ban nhạc Toho Geino (Nhật Bản) sang Việt Nam lưu diễn, và họ đã nhờ phía Việt Nam chọn 12 ca khúc đang nổi tiếng trong nước để tập và sẽ hát “giao lưu” với khán giả. Duyên trời đã đưa đẩy nữ ca sĩ Midori Satsuki chọn hát Nắng chiều và cô đã được khán giả ở Hội chợ Thị Nghè hoan hô nhiệt liệt. Thích quá, Midori Satsuki quyết định chuyển soạn cho Nắng chiều có cả lời Nhật lẫn lời Anh (với tựa Evening sunshine hoặc Afternoon sun), và cô đã thể hiện rất thành công trên đài phát thanh Sài Gòn và Tokyo trong suốt nhiều năm với bản nhạc “tủ” này. Vậy là Nắng chiều không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang vọng khắp xứ Phù Tang…

[Hình: p14-15a2-ca-si-Midori-Satsu.jpg]

Ảnh ca sĩ Midori Satsuki với thủ bút và chữ ký đề tặng Mr. Lê Trọng Nguyễn

Từ cái “duyên” do Nắng chiều đem tới, tác giả ca khúc và người thể hiện đã gặp gỡ nhau, rồi tỏ ra rất “tâm đầu ý hợp”. Họ đã có một thời gian bên nhau thật đẹp khi ở Việt Nam và khi Midori Satsuki về nước họ vẫn giữ liên lạc qua thư từ (năm 2004, gia đình cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và những người thực hiện CD Lê Trọng Nguyễn Collection ở California (Mỹ) đã liên lạc được với bà Midori Satsuki. Bà vẫn còn làm việc ở Đài truyền hình Tokyo và xác nhận là mình vẫn còn nhớ bản Nắng chiều).

Chưa hết, năm 1960 cô ca sĩ Đài Loan tên Kỷ Lộ Hà đến Đà Nẵng trình diễn và đã làm khán giả Việt Nam bất ngờ khi cô hát Nắng chiều bằng tiếng Hoa do Thận Chi đặt lời. Thận Chi (1928-1988) là một tên tuổi lớn của Đài Loan trong lĩnh vực biên kịch và soạn nhạc. Ông cũng thành công trong việc đặt lời Hoa cho nhiều ca khúc quốc tế, trong đó có Nắng chiều... Khi biết tác giả của Nắng chiều đang ở Hội An, Kỷ Lộ Hà đã đến gặp để xin phép về mặt tác quyền. Tuy Lê Trọng Nguyễn không chính thức thừa nhận nhưng nhiều người trong giới, cùng thời với Lê Trọng Nguyễn đã tiết lộ rằng ngay trong cuộc gặp ấy, “Đài ca nương” đã bị “Việt nhạc lang”… hớp hồn bởi nét hào hoa, lịch thiệp - thậm chí nàng còn viết thư cho chàng.

Nghĩ cũng… ngộ, Nắng chiều được hình thành từ cảm hứng do hai giai nhân “nội” mà tác giả thoáng gặp, thoáng yêu đem lại. Rồi Nắng chiều nổi tiếng lan ra hải ngoại lại cũng do hai bóng hồng “ngoại” đến với nhạc sĩ: gặp một thoáng, yêu một thoáng. Thoáng tụ, thoáng tan như vạt nắng chiều.

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)



RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 23-11-2011

Gợi giấc mơ xưa

Họ đã từng có một mối tình thật đẹp... Khi người con gái bị sức ép của gia đình bước lên xe hoa thì trong nỗi đớn đau tuyệt tình, chàng trai đã sáng tác một ca khúc. Hình như tất cả tâm huyết của chàng đã trút hết vào đó nên từ đó đến nay chàng chỉ có duy nhất bài hát này.

Nhạc sĩ Lê Hoàng Long năm nay 82 tuổi, sức khỏe đã yếu, phải nằm ở nhà cho vợ săn sóc. Tôi nhớ, hơn mười năm trước ông còn năng nổ lắm. Hễ có việc gì “bức xúc” là ông điện thoại hoặc gửi thư cho tôi. Ông không theo đạo nhưng giấy viết thư của ông có in tiêu đề Nhạc sĩ Lê Hoàng Long - được Đức giáo hoàng Gioan ban phép lành Tòa thánh, ở góc trái. Còn nhớ, ông luôn chê nhạc sĩ Th.O là “cả đời chỉ làm được mỗi một bản nhạc!”. Tôi phải bật cười, thầm nghĩ: “Sao ông không nhớ là mình cũng chỉ có một bản nhạc độc nhất. Còn cụ Th.O thì có nhiều chứ”. Nghĩ thế, nhưng không dám cãi vì phải tranh thủ tình cảm để hỏi chuyện về người đẹp trong ca khúc Gợi giấc mơ xưa của ông.

10 phút cho một bài nhạc để đời

Ông kể: “Khi vào sinh sống ở Sài Gòn (1954), tôi chơi thân với một anh bạn học. Anh bạn này lại có một cô em gái rất xinh tên là Lê Thu Hiền. Sau những lần đi chơi chung nhóm, dần dần giữa tôi và Hiền nảy sinh tình cảm rất quyến luyến nhau. Tình yêu đang đẹp thì bỗng một hôm Hiền báo cho tôi biết là đã có người đến nhà nàng xin dạm hỏi. Chúng tôi cùng bàn tính cách đối phó. Cuối cùng... tôi lấy hết can đảm để theo nàng về nhà đối mặt với bố cô ấy. Khi tôi đặt vấn đề xin hỏi nàng thì ông ấy bảo: “Để tôi hỏi lại ý kiến em nó đã!”. Không ngờ sau khi tôi về, ông ấy quay sang quát mắng con gái: “Nếu bằng lòng lấy anh Giám đốc Trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer thì còn gia đình. Còn nếu lấy cái anh chàng chỉ biết kéo violon tối ngày thì không còn cha mẹ, anh em, họ hàng gì nữa hết!”. Hiền khóc nhiều lắm nhưng không sao lay chuyển được bố mình. Thế rồi lễ cưới hỏi tuần tự diễn ra...

[Hình: nhacsi.jpg]

Nhạc sĩ Lê Hoàng Long - Ảnh: nhân vật cung cấp

Hôn lễ của Hiền được tổ chức vào một buổi sáng chủ nhật cận Tết Ất Mùi (1955). Sáng hôm ấy, tôi ngồi trong một quán cà phê ở đường Hiền Vương (Võ Thị Sáu bây giờ) chờ đoàn rước dâu về nhà chồng, và để âm thầm tiễn nàng lần cuối: Thu Hiền ôm bó hoa màu trắng trong trang phục cô dâu cùng chú rể bước lên xe hoa. Đoàn xe chầm chậm đi qua chỗ tôi ngồi. Có cảm giác như những bánh xe lăn trên đường đang nghiền nát hồn tôi. Lúc ấy, trong tôi bật lên những tứ nhạc “Thương em thì thương rất nhiều, mà duyên kiếp lỡ làng rồi. Xa em lòng anh muốn nói bao lời...”. Đoàn xe đi khuất, tôi leo lên một chiếc xích lô máy trở về căn gác của mình trên đường Lý Thái Tổ và hoàn tất nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa (cả nhạc lẫn lời) chỉ trong 10 phút...”.

“Thương em thì thương rất nhiều...”

Tôi hỏi ông: “Sao chuyện xảy ra ở Sài Gòn mà câu mở đầu của bài hát lại là “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương”? Ông đáp: “Ngay lúc ngồi tiễn người yêu lên xe hoa, tôi đã quyết định phải đi thật xa Sài Gòn, bởi nơi đây nhìn đâu cũng có kỷ niệm của chúng tôi lưu dấu. Nó bắt mình hồi tưởng tháng ngày có nhau, càng thêm thổn thức, đớn đau. Huế, trầm mặc, cổ kính và thơ mộng hợp với tâm hồn nghệ sĩ của tôi hơn... Và sau đó, tôi đã có mặt ở Huế. Ở đất Thần Kinh, tôi lao vào những mối tình “bèo nước” để tìm quên nhưng không sao quên được hình bóng cũ. Hai năm sau, tôi về lại Sài Gòn, lại lang thang trên những con đường lưu dấu hai đứa, vẫn lẩm nhẩm hát một mình: “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương, Theo gió mơ hồ hồn về đâu? Sóng sầu dâng theo bao năm tháng, ngóng về đường lối cũ tìm em! Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi. Xa em! lòng anh muốn nói bao lời gió buông lả lơi. Hình bóng đã quá xa mờ dần theo thời gian. Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sóng bước lang thang. Em ơi! tình duyên lỡ làng rồi còn đâu nữa mà chờ. Anh đi lòng vương vấn lời thề nhớ kiếp sau chờ nhau. Tha hương lòng thương nhớ ngày nào cùng tắm nắng vườn đào. Gió xuân sang anh buồn vì vắng bóng người yêu...”.

[Hình: giacmo.jpg]

Bìa bản nhạc Gợi giấc mơ xưa - Ảnh: tư liệu

“Thế có lúc nào ông gặp lại người xưa không?”. “Có. Một hôm chúng tôi tình cờ gặp lại nhau trên phố. Cũng chẳng nói gì nhiều, chỉ thăm hỏi qua loa. Biết nàng đã “tay bế, tay bồng” nên tôi cũng không chủ tâm gặp lại sợ sẽ khuấy động hạnh phúc của nàng... Tôi cũng chẳng buồn trách cô ấy hoặc giận gia đình cô. Ở đời, có duyên mà không nợ là chuyện bình thường. Chỉ là một chuyện tình đẹp mà định mệnh đã tạo ra cho tôi cơ hội để viết thành một ca khúc, mà may mắn thay, suốt nhiều thập niên qua nó luôn được công chúng yêu mến... Tôi lập gia đình sau đó ít năm. Chúng tôi có 6 người con. Vợ tôi mất đột ngột năm 1975, đến năm 1981 tôi tái giá với một cô giáo dạy văn, làm thơ rất hay. Chúng tôi có thêm một cháu gái - chỉ có cô gái út này là có máu văn nghệ như bố. Cháu hát khá hay và đã đoạt giải nhất cuộc thi Hát với Organ 1999...”.

Dạo ông kể cho tôi chuyện này là hơn mười năm trước, lúc “cô gái út” khoảng mười ba, mười bốn tuổi. Bây giờ Ngân (tên cô út) đã là một thiếu phụ - từng là vợ của một nhà thơ, có quen biết với người viết nên tôi cũng thường hỏi thăm sức khỏe của lão nhạc sĩ thông qua người này.

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)



RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 06-12-2011

Những kỷ vật “Nghìn trùng xa cách”

Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ sáng tác tình khúc hay nhất của âm nhạc Việt Nam. Khi ở vào ngưỡng tuổi… U.100, nhạc sĩ thừa nhận rằng mình là người “nghiện yêu”, mỗi tình khúc đều liên quan đến một cuộc tình.

Đọc hồi ký của ông (4 tập), mới vỡ ra nhiều điều trong tình trường của Phạm Duy. Điều thú vị là người đưa ra lời khuyên “Muốn biết Phạm Duy yêu như thế nào, những người phụ nữ đó là ai thì nên đọc Hồi ký Phạm Duy” lại chính là ca sĩ Tuấn Ngọc (con rể của nhạc sĩ Phạm Duy). Đó là vào tối 5.10.2011 trong buổi dạ tiệc mừng sinh nhật lần thứ 91 của nhạc sĩ, được tổ chức tại tư thất của ông bà Lê Thành Ân - Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP.HCM để chào mừng nhạc sĩ James Durst từ Mỹ sang Việt Nam thăm nhạc sĩ Phạm Duy. Đêm đó đứng trước mặt ông bố vợ chỉ cách hai bước chân, Tuấn Ngọc thủ thỉ, tâm sự, đôi khi hóm hỉnh - như khi nói về bài hát Tình kỹ nữ: “Tôi chưa có kinh nghiệm về cái thú “kỹ nữ” mà bây giờ người ta gọi là… “bia ôm”, nhưng hồi ấy, mới 25 tuổi mà Phạm Duy đã viết ra những câu như thế này “Ta ôm người đẹp trong tay, bên nhau mà lòng xa vắng. Ta nâng niu làn dư âm của khách năm xưa yêu nàng…” thì đó không phải là cái hời hợt của đám thanh niên “ăn bánh, trả tiền” nữa rồi, mà là vượt thoát ra khỏi cái tầm thường. Con nói thế đúng không bố?”. Phạm Duy chỉ cười rung mái đầu bạc trắng với những lọn tóc xoăn…

[Hình: Bonghong288438573.jpg]

Nhạc sĩ Phạm Duy giai đoạn viết Nghìn trùng xa cách - Ảnh: Tư liệu

Lưới tình chật hẹp

Phạm Duy bước chân vào lĩnh vực ca nhạc khi ở lứa tuổi thanh niên, anh là ca sĩ chuyên hát nhạc của Văn Cao trong gánh hát Đức Huy - Charlot Miều đi lưu diễn từ Bắc chí Nam. Năm 1944, gánh hát dừng chân ở Phan Thiết, qua bài hát Buồn tàn thu của Văn Cao, chàng ca sĩ trẻ đã làm quen được với một góa phụ trẻ mang hai dòng máu Việt - Anh. Nàng tên là Hélène, sống ở đồn điền Suối Kiết (cách tỉnh lỵ không xa) với mẹ già và hai người con: Alice (gái) và Roger (trai). Giữa chàng du ca và người cô phụ trẻ đã có một cuộc tình mà theo Phạm Duy là “rất nhẹ nhàng và trong sạch”. Và rồi “người đẹp Tây lai” này cũng mau chóng biến mất trong ký ức của chàng nghệ sĩ du lãng…

Hơn mười năm sau, họ bất ngờ gặp lại nhau giữa Sài Gòn. Lúc này, đôi bên ai cũng đã có gia đình riêng. Hélène mời Phạm Duy về chơi nhà mình trên đường Trần Hưng Đạo. Phạm Duy ngỡ ngàng khi nhìn thấy Alice. Cô bé bây giờ đã là một thiếu nữ tuổi tròn trăng, giống mẹ như đúc, cặp mắt và khuôn mặt phảng phất những nét “Việt - Anh - Hoa” (cha của Alice vốn là người Hoa). Thế rồi suốt trong một năm, cứ đến cuối tuần, Phạm Duy lái xe hơi đến đón Alice đi chơi. “Chú Phạm Duy” trở thành người tri kỷ để Alice trút bầu tâm sự, những “hỉ nộ ái ố” của một cô gái mới qua tuổi dậy thì.

[Hình: Bonghong3.jpg]

Những kỷ vật: lá khô và lọn tóc - Ảnh: Hà Đình Nguyên

Đặc biệt, Alice thừa hưởng của mẹ năng khiếu thi ca và âm nhạc nhưng có phần vượt trội hơn. Nàng rất thích hát những bản Tình ca, Tình hoài hương, Tình kỹ nữ, Bên cầu biên giới… của Phạm Duy, khiến cho “…Cái lưới ái tình chật hẹp tung lên vào năm 1944 mà không chụp vào đầu tôi, hơn mười năm sau vì không tránh né nên tôi chui tọt vào lưới. Một chiều mùa thu 1957, tôi tỏ tình với Alice và được nàng ban cho một cái ừ lặng lẽ”.

Mối tình cao thượng

Phạm Duy kể tiếp: “Lúc đó tôi có ngay quyết định là mối tình này cũng phải cao thượng như mối tình giữa tôi và Hélène. Đã gần mười năm vì quá mê mải soạn nhạc tình tự quê hương, tôi không soạn một bản nhạc tình nào cả. Tôi không ngờ trong một thời gian ngắn, tôi lại gặp được tình yêu. Tôi không lẩn tránh, dù biết không giữ được nó suốt đời.

Cuộc tình khởi sự bằng bài Thương tình ca (1956). Vì chênh lệch tuổi tác và vì không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ đầu rằng đây chỉ là một mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Tôi cố gắng tránh mọi đụng chạm về xác thịt và tôi hãnh diện để nói rằng nàng vẫn là một trinh nữ khi rời xa tôi để lên xe hoa về nhà chồng. Là một nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không cần phải chiếm đoạt, nhất là chiếm đoạt một người con gái còn ít tuổi. Mỗi cuối tuần gặp nhau, thế là quá đủ…

Trong hơn 10 năm (1956-1968), nhạc tình của tôi là đều là những bài viết cho nàng (Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Cỏ hồng, Nha Trang ngày về…). Là một người rất yêu thơ, trước khi xa nhau, nàng đã viết tới 300 bài thơ để tặng tôi. Chúng tôi gặp nhau thường là để nói chuyện về thơ hay nhạc. Cũng vì nàng yêu thơ nên nếu có những bài thơ hay thì tôi phổ nhạc (Ngậm ngùi, Vần thơ sầu rụng, Hoa rụng ven sông, Kiếp nào có yêu nhau...) hoặc phát triển từ dân ca (Tóc mai sợi ngắn sợi dài, Nụ tầm xuân, Bài ca sao, Đố ai...). Cũng có khi tôi phóng tác thơ nàng thành ca khúc, trong đó có “Tôi đang mơ giấc mộng dài/Đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh…” - Tạ Tỵ, người viết chuyện đời tôi, cho rằng đó là bài tình ca hoan lạc nhất của đời tôi…” (trích hồi ký).

Với người viết, ca khúc Nghìn trùng xa cách là một trong những tình khúc hay nhất của nhạc sĩ Phạm Duy. Bài hát này nhạc sĩ làm sau khi Alice từ tạ ông để đi lấy chồng sau Tết Mậu Thân (1968). Trong bài hát còn nhắc tới những kỷ vật mà nàng đã tặng ông: “Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt màu, có lũ kỷ niệm trước sau: Vài cánh xương hoa, nằm ép trong thư, rồi cũng tan như bụi mờ. Vạt tóc nâu khô, còn chút thơm tho, thả gió bay đi mịt mù…”. Người viết đã có được may mắn, chứng kiến những kỷ vật của Alice trong Nghìn trùng xa cách. Đó là những xác lá khô được ép trong tập thơ tình, là lọn tóc màu nâu “rất Tây” mà nàng đã cắt tặng nhạc sĩ trong một ngày sinh nhật của ông... Hơn 40 năm sau, những kỷ vật này không hề “tan như bụi mờ” hoặc bị “thả gió bay đi mịt mù” mà nằm trang trọng trong một hộp kính, đủ biết Phạm Duy đã nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm với Alice như thế nào…

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)



RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - Phụng - 07-12-2011

Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Hơn nửa thế kỷ trước, bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím của nhà thơ Kiên Giang ra đời (1958) đã làm xôn xao dư luận một thời. Bài thơ còn được biết đến nhiều hơn khi được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc.

Kiên Giang là nhà thơ, soạn giả cải lương (tác giả các vở tuồng Áo cưới trước cổng chùa, Sơn nữ Phà Ca…), nhà báo - chứng nhân còn sót lại của sự kiện “Ngày ký giả đi ăn mày” (xảy ra vào năm 1974, báo giới miền Nam xuống đường với nón lá, bị, gậy của dân “cái bang” để chống đối chính quyền Thiệu ra sắc luật đàn áp báo chí)… Người viết chơi thân với ông đã gần hai mươi năm nhưng muốn gặp ông thật khó bởi ông luôn dịch chuyển (rất giống với ông bạn thân cùng lứa, cùng làng là nhà văn Sơn Nam).

Năm nay 84 tuổi, mái tóc đã gội tuyết sương đến bạc trắng nhưng nếu có ai hỏi về thời niên thiếu, về Sơn Nam, về Nguyễn Bính (người thầy dạy Kiên Giang làm thơ khi ông mới 17 tuổi) và nhất là về người con gái trong bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím là ông kể một mạch bằng một giọng bùi ngùi, không hề đứt đoạn, làm như những chuyện đó đã thấm vào máu thịt của ông…

“Thuở ấy anh hiền và nhát quá ...”

17 tuổi, anh học trò Trương Khương Trinh (tên thật của Kiên Giang) rời vùng quê Rạch Giá lên Cần Thơ học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) ở Trường trung học tư thục Nam Hưng. Vốn là người có hoa tay: vẽ vời và viết chữ rất đẹp (đến bây giờ chữ của ông vẫn rất lả lướt) nên ông được các thầy cô giáo cho thực hiện một tờ báo (chép tay vào cuốn vở học trò) lấy tên là Ngày xanh. Tờ báo này là đối trọng, giao lưu với tờ Thắm của Trường trung học Ba Sắc, cũng nằm trên địa bàn. Cứ vào chủ nhật mỗi tuần, các cô cậu “nhà báo - học trò” lại quây quần trong một vườn xoài xanh um bóng mát để thực hiện tờ báo. Kiên Giang biên tập bài vở và trình bày (vẽ, trang trí…), còn cô bạn Nguyễn Thị Nhiều thì chép bài vở (có lẽ chữ cô này đẹp hơn chữ của Kiên Giang!).

Tuy mang cái tên rất dân dã nhưng Nhiều rất đẹp với mái tóc dài ôm xõa bờ vai, thỉnh thoảng vờn bay trong gió. Mái tóc ấy, khuôn mặt ấy đã khiến tâm hồn non trẻ nhưng rất lãng mạn của chàng trai sau này trở thành nhà thơ… tơ vương. Gia đình nàng theo đạo Thiên Chúa nên mỗi sáng chủ nhật nàng thường đi lễ nhà thờ Cần Thơ. Kiên Giang không theo đạo nhưng sáng chủ nhật nào cũng “rình” trước cổng nhà thờ để được “tháp tùng” nàng trên đường đi lễ về. “Yêu nhau” chỉ có vậy: ngoài những cái liếc mắt và những nụ cười thẹn thùng, e ấp thì hai người chẳng còn thứ gì để “trao đổi” nữa cả. Tuy thế, cả hai đều cảm nhận được những tình cảm sâu kín mà họ dành cho nhau. Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, kéo dài suốt 9 năm (1945-1954), việc học hành bị gián đoạn, trường lớp tan tác… Kiên Giang và bạn bè thân thiết (Nguyễn Bính, Sơn Nam…) vào Khu 8 tham gia kháng chiến, và rồi ông lập gia đình trong thời gian này.

[Hình: hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim.jpg]

Bài thơ và thủ bút của nhà thơ Kiên Giang tặng người viết

“Để nghe khe khẽ lời em nguyện”

Sau này, nhiều lần Kiên Giang tâm sự với người viết: “Điều xót xa (sau này mới biết) là trong những tháng ngày loạn lạc đó, Nhiều vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Năm 1955, nàng quyết gặp mặt tôi một lần rồi mới lấy chồng. Tình cảm cứ ám ảnh tôi khôn nguôi. Tôi đưa hình ảnh và tâm sự của hai đứa vào bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, làm tại Bến Tre năm 1958. Ở đoạn kết có những câu: “Ba năm sau, chiếc xe hoa cũ/Chở áo tím về giữa áo quan/Chuông đạo ngân vang hồi tiễn biệt/Khi anh ngồi kết vòng hoa tang…”, tôi đã “cho” người mình thầm yêu phải chết đi, để mối tình kia còn nguyên vẹn là của riêng mình. Tuy nhiên, một thời gian sau tôi có dịp gặp lại cố nhân ở Sóc Trăng (lúc này nàng đã có chồng). Sau cuộc gặp gỡ đó, không hiểu sao tôi lại muốn mình (người bạn trai trong bài thơ) chết để bảo vệ quê hương, để không còn vương vấn mối tình thuở học trò. Tôi đã sửa lại đoạn kết như thế ở Hàng Xanh (Gia Định), nhưng hầu như bạn đọc chỉ thích giữ nguyên tác, nhất là khi nó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc thì bài thơ lại càng nổi tiếng, lan tỏa. Có lần tôi thú thực với bà xã về cái ấn tượng “sắc hoa trắng - màu áo tím”. Từ đó không có màu tím trong tủ áo nhà tôi nữa...”.

[Hình: nhathoKienGiang.jpg]

Nhà thơ Kiên Giang - Ảnh: Đào Trung Phụng

Trong thơ là thế nhưng sự thật ngoài đời chẳng có ai chết cả. Năm 1977 họ lại có dịp gặp nhau. 33 năm đã trôi qua kể từ “Thuở ấy anh hiền và nhát quá/Nép mình bên gác thánh lầu chuông/Để nghe khe khẽ lời em nguyện/Thơ thẩn chờ em trước thánh đường…”, bây giờ gặp lại, hai mái đầu đã bạc. Cả hai cố tránh không nhắc nhớ về cái thời cùng học dưới mái trường Nam Hưng, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn trân trọng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.

Kiên Giang kể lại, đầu năm 1999 Hãng phim truyền hình TP.HCM (TFS) thực hiện một bộ phim tài liệu về ông mang tên Chiếc giỏ đời người (Kiên Giang đi đâu cũng kè kè một chiếc giỏ, mặt ngoài vẽ chi chít chữ - NV), trong kịch bản có một cảnh quay tại Cần Thơ. Khi ông và ê kíp làm phim đến nhà “người xưa” mời bà Nhiều ra quay cảnh ở nhà thờ chính tòa thì thấy ngôi nhà đóng cửa, lạnh ngắt. Người hàng xóm cho biết bà Nhiều đã qua đời năm 1998. Ông thật xót xa… Hôm sau ông trở lại, cô con gái của bà Nhiều kể rằng lúc bà mất, tang gia có gửi thiệp báo tin cho ông nhưng tiếc là ông đã không nhận được để tiễn biệt người xưa lần cuối thực sự chứ không phải tiễn biệt như trong thơ. Rồi ông cùng người con gái của bà ra nghĩa trang viếng mộ. “Người xưa” bây giờ chỉ còn là di ảnh trên bia mộ, nhưng người con gái đứng bên ông thì lại giống cô Nhiều ngày trước lạ lùng…

Trích dẫn:Cũng cần nói thêm, năm 2002 nhà báo Hà Đình Nguyên đã có giới thiệu (và đăng) bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím trên Báo Thanh Niên. Hôm đó, các sạp báo ở Sài Gòn không còn tờ Thanh Niên nào sót lại, rất nhiều người (có cả những anh chạy xe ôm, xích lô…) đã đến tận tòa soạn để hỏi mua. Ở Cần Thơ cũng “cháy báo”, không còn đủ số lượng cung cấp cho bạn đọc (hồi đó ở Cần Thơ Báo Thanh Niên chưa được in cùng lúc với nhiều chỗ như bây giờ), tòa soạn ở TP.HCM phải in thêm, đưa xuống tặng bạn đọc. Kể như thế để thấy rằng bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím được công chúng miền Nam yêu thích như thế nào.

Hà Đình Nguyên

(Theo Báo Thanh Niên)



RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - lenne - 28-10-2013

Lê Uyên và Phương và khúc nhạc "Khi loài thú xa nhau".




Lê Uyên Phương sinh ngày 2/7/1941, tại Đà Lạt. Tên khai sinh của ông là Lê Văn Lộc.

Trước đó cha mẹ ông đặt là Lê Minh Lập, nhưng do sự cẩu thả của nhân viên hộ tịch, trở thành Lê Minh Lộc, rồi cuối cùng thành Lê Văn Lộc.

Nhạc sĩ bắt đầu sáng tác năm 1960 với ca khúc đầu tiên Buồn đến bao giờ, được viết tại Pleiku, khi ông dạy học tại đó và ký tên là Lê Uyên Phương.

Bút danh này được ông lấy chữ lót tên mẹ là Công Tôn Nữ Phương Nhi ghép với tên người tình đầu tiên là Uyên mà thành.

[Hình: Le-Uyen-va-Uyen-Phuong-3-resiz-7124-1674-1382851233.jpg]

Trời phú cho Lê Uyên Phương năng khiếu trong lĩnh vực viết ca khúc nhưng lại bắt ông gánh chịu căn bệnh hiểm nghèo: nhiều khối u mọc đầy cơ thể.

Ông không nói ra và người khác cho rằng ông bị ung thư xương, sẽ giã từ cõi đời bất cứ lúc nào.
Chính nỗi đau này tạo cho âm nhạc của Lê Uyên Phương những nét riêng, như tiếng thét gào, buồn da diết.

Năm 1968, định mệnh mang đến cho Lê Uyên Phương một người con gái Hà Nội, gốc Hoa (cha Hải Nam, mẹ Triều Châu). Cô tên là Lâm Phúc Anh, sinh năm 1952.

Gia đình của Lâm Phúc Anh thuộc dạng giàu có ở vùng Chợ Lớn, họ là chủ một hãng xe chạy đường Sài Gòn ra các tỉnh miền Trung. Vì có tiền của, Lâm Phúc Anh được học trường Virgo Maria (ở Đà Lạt) - một trường Tây sang trọng lúc bấy giờ.


Lâm Phúc Anh xinh đẹp, đài các, rất lãng mạn mà đầy cá tính. Cô có năng khiếu âm nhạc.
Năm 1968, tròn 16 tuổi, Phúc Anh gặp thầy dạy triết và Việt văn - Lê Uyên Phương - lớn hơn mình 11 tuổi - ở nơi thành phố sương mù.

Nhìn dáng vẻ và khuôn mặt đầy chất nghệ sĩ của ông, Lâm Phúc Anh trúng tiếng sét ái tình đánh khi trông thấy dáng vẻ và gương mặt đầy chất nghệ sĩ của thầy giáo.

Khi biết Lê Uyên Phương mắc bệnh nan y, Lâm Phúc Anh càng yêu ông tha thiết.

Gia đình Lâm Phúc Anh ra sức ngăn cản nhưng cô gái bất chấp tất cả.

Cha mẹ cô dùng biện pháp cuối cùng là đưa Phúc Anh về Sài Gòn để chia cách họ. Không chịu nổi nỗi nhớ, Lê Uyên Phương thường tới Sài Gòn và nơi họ thường xuyên gặp gỡ nhau là nhà ga xe lửa.

Chính thời gian này, Lê Uyên Phương cho ra đời một trong những ca khúc bất hủ của ông - Khi loài thú xa nhau.

Lâm Phúc Anh tâm sự: “Tôi yêu Lê Uyên Phương vì tài năng, sự hiền lành, đạo đức và tấm lòng nhân ái, rộng lượng của anh. Nhưng tha thiết hơn cả là con người nghệ sĩ và căn bệnh hiểm nghèo mà anh mắc phải.


Cuộc tình của chúng tôi rất đẹp nhưng cũng rất đau đớn bởi không biết ngày nào đó sẽ vĩnh viễn mất nhau vì cái chết luôn rình rập”.


[Hình: le-8228-1382851233.jpg]


Cặp đôi Lê Uyên và Phương đã mang đến luồng gió mới cho âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ đó.

Năm 1969, Lê Uyên Phương và Lâm Phúc Anh chính thức chung sống và bắt đầu cuộc đời ca hát, nhanh chóng trở thành đôi song ca nổi tiếng.

Lâm Phúc Anh không muốn lấy tên thật của mình hay bất cứ nghệ danh nào khác. Cô muốn mình là Lê Uyên để cùng với Phương gắn kết suốt đời.

Tên gọi "Lê Uyên và Phương" ra đời từ đó. Sau lần xuất hiện đầu tiên tại quán Thằng Bờm của phong trào du ca, Lê Uyên và Phương được người yêu nhạc đón nhận một cách nồng nhiệt, coi đó như làn gió mới thổi vào đời sống nghệ thuật trong thời điểm chiến tranh ngày càng khốc liệt.

Những ca khúc mà đôi vợ chồng sáng tác, biểu diễn ghi đậm dấu ấn vào lòng người nghe, điển hình là Khi loài thú xa nhau, Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta… Lê Uyên và Phương có với nhau hai người con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Năm 1979 họ rời Việt Nam sang Hoa Kỳ, định cư tại California.


Lê Uyên và Phương chia tay năm 1984, sau gần 15 năm chung sống. Nhiều người cho rằng phần lỗi hoàn toàn thuộc về Lê Uyên.

Thực, hư thế nào không rõ, nhưng chắc chắn ngay sau đó, Lê Uyên đã có thời gian chung sống với một người đàn ông khác. Nhưng cuộc chung sống đầy tai tiếng này không như ý của Lê Uyên.

Sau đó cô lại quay về với Phương và tái kết hợp trong lĩnh vực ca hát ở hải ngoại. Năm 1999, Phương qua đời ở tuổi 51.


Lê Uyên Phương để lại cho đời hơn 40 tác phẩm. Số lượng tuy không lớn nhưng chất lượng, nhất là những gì đã được Lê Uyên và Phương thể hiện thì rất khó bị lãng quên.

ngoisao.net





RE: Những bóng hồng trong thơ nhạc - lenne - 30-10-2013

Từ Dung và Từ Công Phụng - "Trên ngọn tình sầu"

[Hình: Tu-Cong-Phung-resize-1702-1382851233.jpg]

Nhạc sĩ Từ Công Phụng.

Cùng thời với Lê Uyên và Phương còn đôi song ca nổi tiếng khác là Từ Dung - Từ Công Phụng.

Từ Công Phụng sinh năm 1942 tại Ninh Thuận, là nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng giai đoạn 1950 - 1975 tại miền Nam. Ông có thể hình to lớn, nhưng phong thái lại rất nghệ sĩ, ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự, dễ gây thiện cảm với mọi người.

Là người dân tộc Chăm, được chính quyền Sài Gòn ưu đãi theo chính sách đối với các dân tộc thiểu số. Vì thế, chưa tốt nghiệp tú tài, Từ Công Phụng đã được ưu tiên vào học trường đại học quốc gia Hành chính. Tuy nhiên, chỉ học được hơn một năm thì ông bỏ học, đi làm biên tập viên cho một đài phát thanh. Không như nhiều bài báo trong và ngoài nước cho rằng Từ Công Phụng đã tốt nghiệp cử nhân Luật tại Sài Gòn.

Không qua một trường lớp âm nhạc nào, nhưng với năng khiếu bẩm sinh và tâm hồn nhạy cảm, Từ Công Phụng tự học để trở thành một tên tuổi lớn trong lĩnh vực sáng tác. Năm 1960, ông ra mắt ca khúc đầu tay Bây giờ tháng mấy khi vừa tròn 18 tuổi và ngay lập tức trở nên nổi tiếng. Có thời gian Từ Công Phụng sống tại Đà Lạt và cùng Lê Uyên Phương thành lập nhóm nhạc Ngàn Thông, biểu diễn hàng tuần trên đài phát thanh Đà Lạt. Không dữ dội như Lê Uyên Phương, nhạc của Từ Công Phụng đầy chất trữ tình, êm ái với ca từ trau chuốt, sang trọng. Ông còn có khả năng phổ nhạc cho thơ, đặc biệt là thơ của Du Tử Lê. Tiêu biểu như những bài Trên Ngọn tình sầu, Ơn em…

Năm 1968, Từ Công Phụng gặp Từ Dung - cô gái có làn da trắng, đẹp lộng lẫy, từng đoạt danh hiệu Á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp tại miền Nam. Đôi trai tài gái sắc này sau đó nên duyên chồng vợ.

Sinh năm 1945, Từ Dung là con gái của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, là cháu ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân). Năm 1965, Từ Dung tốt nghiệp Tú tài toàn phần và đến năm 1969 lấy bằng cử nhân văn chương.

Từ Dung rất say mê ca hát và cũng được trời ban cho một chất giọng khá hay. Lúc bấy giờ, cô đang theo học thanh nhạc với ca sĩ Châu Hà, vợ của nhạc sĩ Văn Phụng. Chính môi trường này đã đưa đẩy Từ Dung gặp gỡ rồi quen biết với Từ Công Phụng. Lần đầu họ xuất hiện bên nhau trên sân khấu quán Văn ở đại học văn khoa với ca khúc Bây giờ tháng mấy.

[Hình: Tu-dung-resize-9971-1382851233.jpg]

Nghệ sĩ Từ Dung.

Vào thời điểm này, có 3 cặp đôi nổi đình nổi đám là thần tượng của thanh niên, sinh viên, học sinh: Khánh Ly - Trịnh Công Sơn, Lê Uyên - Phương, Từ Dung - Từ Công Phụng. Mỗi cặp một đặc điểm riêng nhưng giống nhau ở chỗ giọng nam kiêm luôn sáng tác. Trong 3 cặp này thì Từ Dung - Từ Công Phụng ít nổi tiếng hơn nhưng cũng là một hiện tượng trong đời sống âm nhạc dạo đó.

Sống với nhau có một con gái thì Từ Dung - Từ Công Phụng chia tay, một cuộc chia tay khá buồn! Chẳng ai biết được nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này. Nhưng theo một người quen thân của cặp đôi, vào một chiều 30 Tết, người này tình cờ gặp Từ Công Phụng trên đường và họ rủ nhau đi bộ về nhà. Dọc đường, Từ Công Phụng tâm sự hết nỗi niềm của mình với những lời trách móc Từ Dung. Nhưng đó cũng chỉ là những lời từ phía của Từ Công Phụng, còn Từ Dung thì chẳng nghe nói một lời nào.

Năm 1980, Từ Công Phụng sang Mỹ, định cư tại Portland, tiểu bang Oregan và lập gia đình mới với một người phụ nữ tên là Kim Ái. Thời gian này, Từ Dung còn ở lại Việt Nam, bà mướn một căn phòng trong cư xá Ngân hàng, quận 3 và có biểu hiện tâm thần. Bà ít khi mở miệng nói với ai một lời nào. Đêm đêm, bà thường khỏa thân ngồi lặng lẽ trong bóng tối trước hiên thềm như một pho tượng. Một thời gian sau, Từ Dung qua cơn trầm cảm và cũng sang định cư tại Mỹ và sinh sống tại tiểu bang Hawaii. Từ Dung cũng đã lập gia đình khác với một người đàn ông Mỹ.


[Hình: TCP-va-vo-1-resize-9447-1382851233.jpg]

Từ Công Phụng và vợ hiện tại.

Ở Mỹ, Từ Công Phụng vẫn tiếp tục cuộc đời sáng tác và ca hát, ông đã nhiều lần về thăm quê nhà và ít nhất đã có hai lần biểu diễn tại một phòng trà nổi tiếng ở Sài Gòn, cuối năm 2012, ông có đêm nhạc riêng tại Nhà hát TP.HCM. Còn Từ Dung thì im hơi lặng tiếng, chẳng còn nghe ai nhắc đến tên bà nữa. Ngay cả Từ Công Phụng trong các bài phỏng vấn cũng chỉ nói đến Kim Ái và các con sau này - như Từ Dung chưa bao giờ xuất hiện trong sự nghiệp và cuộc đời của ông. Mọi chuyện dường như đã chìm hẳn vào quên lãng. Âu đó cũng là nỗi đau “hồng nhan bạc phận” của Từ Dung.

Theo Duyên Dáng Việt Nam