Thi Ẩm Lâu
Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ - Phiên bản có thể in

+- Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum)
+-- Diễn đàn: Tửu Lầu (https://thiamlau.com/forum/forum-5.html)
+--- Diễn đàn: Ca kỹ phòng (https://thiamlau.com/forum/forum-10.html)
+--- Chủ đề: Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ (/thread-497.html)

Pages: 1 2


RE: Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ - MrTee - 04-12-2011

heee..bác định cư trong đó luôn hả..cuối năm có về ko


RE: Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ - hothiethoa - 21-01-2012




RE: Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ - lanhdien - 03-02-2012

Ngỡ Ngàng, Nước Đục Bụi Trong

Nam Dao

Sau trăm năm, gạn đục và khơi trong không phải là chuyện của người đã nằm xuống. ở chốn về vĩnh cửu chỉ còn im lặng. Trong và đục là chuyện nơi chốn trọ của những kẻ còn đang ở trọ. Là chuyện để nói với những lữ khách còn xuôi ngược bước trần gian. Và trong trường hợp Trịnh Công Sơn, xin nói ngay, trong là bụi. Đục là nước.

Nước đục!

Ghê rợn và kinh hoàng, đục ngầu một màu máu đỏ. Đau xót hơn, máu của anh, của em, của chị, của mẹ. Có người chết hai lần, thịt da nát tan. Trong từng vùng thịt xương có mẹ có em, anh đã hát, tiếng hát đến thẳng từ trái tim. Giữa tiếng đại bác đêm đêm dội về thành phố và bên cạnh người phu quét đường dừng chổi đứng nghe, anh đã nhắc đến gia tài của mẹ. Còn gì? Một bọn lai căng! Một lũ bội tình. Tôi có hỏi Sơn, Sơn không sợ à? Phản chiến giữa khi người ta hò hét đâm chém nhau là cách hành xử của một tên tử tội, nhát dao thường bổ xuống từ hai phía. Sơn cười...lúc đó mình sẵn sàng. Chết, như tự tử. Nhưng rồi sống... và bây giờ chỉ muốn quên thời gian đó đi. Quên là quên cả những bài hát? Không! Tôi thì không quên. Lời những bài trong Ca khúc da vàng là tiếng nói của lương tâm. Trước cái chết của một người, kẻ còn sống động lòng thương thân. Trước cái chết của một xã hội, thì thương mọi người để cất giọng tìm cách hồi sinh, bất kể thân thế của mình. Giữa hai lằn đạn thuở đó, Sơn là một hạt bụi. Một hạt bụi trong ngần.

Nước vẫn đục. Sau 75, Sơn tiếp tục ...đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng và kể tâm sự những cây cành, giờ giới nghiêm. Sơn nhớ. Và với những kẻ lưu vong, Sơn hỏi Em còn nhớ hay em đã quên? rồi dặn dò Em ra đi, nơi này vẫn thế. Vẫn có em, trong tim của mẹ... Nơi này vẫn thế. Thế là thế nào? Vẫn thế, là không đổi. Không đổi được! ơ, chẳng nhẽ Cách Mạng rồi mà thế ư? Và Sơn lại có vấn đề. Hỡi những ai đã ồn ào gọi Sơn bằng thằng khi anh đã nằm xuống, xin hãy nghĩ lại.

Nước vẫn cứ đục. Sơn hát, Sống có trăm năm, vui vui buồn buồn, người người ngợm ngợm. Chữ ngợm này có lẽ là chữ ngợm đầu tiên trong ca khúc Việt Nam. Và nước đục, vì ngợm? Để sống chết trăm năm như thân cỏ hèn mọc đầy núi sông. Núi sông ở bản đầu, khi Sơn hát cho tôi nghe, lâu rồi. Sau này, núi sông thành núi non. Dĩ nhiên thế là nhẹ đi, nhẹ đi nhiều lắm... Nhưng xin nói, Sơn không làm chính trị. Anh hát điều anh cảm nhận. ở chỗ này, nhà chính trị thập thò nhìn người nghệ sĩ, nửa hoài nghi sợ sệt, nửa lại cơ hội đòi nắm bắt cái cảm nhận kia để dùng nó mà giữ ổn định. ở đây, ổn định đồng nghĩa với quyền lực của mình (và phe phái ).

Người người ngợm ngợm!

Cuối năm 98, tôi ở với Sơn một tối. Sau khi cả hai chúng tôi từ chối dự một bữa cơm thân mật với lãnh đạo, có tiếng điện thoại. Sơn bắt máy. Tôi chỉ có thể kể những gì tai nghe. Có một đoạn, Sơn nói Thôi, mấy cái mẫu đất ấy dân người ta còn ở... Im lặng ( không phải đầu dây bên kia im lặng ). Không anh, cám ơn anh... Tôi không lấy đâu. Tôi chẳng biết lấy đất làm gì cả. Im lặng ( không phải đầu dây bên kia im lặng ). Thôi... ai lấy cứ lấy, anh cho ai thì cho...

Người không tham, nhưng ngợm? Người thì... đôi khi cho tôi tiếng nói vui tươi. Còn ngợm... cho tôi tiếng nói đôi khi ngậm ngùi... Anh ngậm ngùi kể, lần đầu ra Hà Nội, anh có một buổi thật vui với Bùi Xuân Phái. Hai người vẽ nhau trong một cuốn sổ tay thì phải. Vẽ suốt đêm, và Phái tặng hết cho Sơn. Bạn anh mượn. Ai? Anh không kể tên. Rồi có tiếng phao lên là anh định hiếp con gái bạn. Sơn bảo, xì-căng-đan thế là nhằm xí xóa sạch. Tập tranh Sơn-Phái hóa thành bụi, đòi không được! Khi tôi nói... chắc là hiểu nhầm thì Sơn thở dài... xin moa, moa cho. Đặt điều thì... Thuở đó, tranh Phái đang lên giá. Một bức nhỏ bằng ba bàn tay cũng năm, bảy nghìn USD. Tôi lại ba phải...tranh Phái giữ được không bán cho ba Tầu ở Singapore thì trong tay ai cũng thế! Lần này, Sơn cười, cười rất buồn. Nhưng Sơn im lặng. Những bức tranh đó nay đâu? Trời biết!

Nói chuyện người. Chênh chếch Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn cách đây trên hai mươi năm có một cô gái bán nước dừa. Tôi có cái duyên ghé uống, vội đến háo hức lôi Sơn đi. Cô ta độ đôi mươi, áo bà ba đen, quần cũng đen, chít một cái khăn rằn. Dưới ánh nắng Sài Gòn, da cô rám hồng, cặp mắt thăm thẳm màu nước, và trời ơi, trên mép cô những hạt li ti mồ hôi óng ánh kim cương. Hai thằng điên đội trời nắng rát trầm trồ thì thào, trời ơi, đẹp quá, như phép lạ. Rồi cứ dăm ba ngày, lại đúng giữa trưa, đến uống để ghé thăm những giọt mồ hôi bên trên cái khóe mép đã nhếch lên cười khi thấy khách không còn lạ mặt. Tôi bảo, để tôi làm quen nhé. Sơn can, chớ, thế là quen rồi, từ xa thì giữ được cái đẹp. Từ xa là cái khoảng cách giữa những người đàn bà và Sơn. Oái oăm thay, anh lại là tác giả một số lượng những tình khúc đẹp nhất trong âm nhạc của chúng ta. Trong các tác phẩm đó, nhiều là chỉ có môi hôn ngọt, bờ vai nhỏ, ngón tay gầy... lãng đãng. Những người tự nhận là người yêu (của) anh vênh vang giữ vẹn tiết trinh. Ai lòng nào rêu rao buộc anh vào những thô bạo khó hiểu? Thôi, thây kệ!

Chuyện người đối với anh, trước hết là gia đình. Anh yêu mẹ, như một đứa trẻ. Có lần ở xa, anh thốt lên ...moa nhớ mạ moa quá. Rồi anh cười khoe ...mỗi khi làm xong một ca khúc, moa hát cho mạ moa nghe. Cái mạ bảo được, thường là ai cũng thích. Nếu không, moa sửa... lắm khi bỏ luôn. Sau là các em anh, đặc biệt với Vĩnh Trinh, anh cứ tội cô em nhỏ này sinh ra là mồ côi cha. Cái tình anh san sẻ cho gia đình không nhỏ.. Em dâu em rể anh quí anh như ruột thịt. Các cháu anh coi anh còn hơn cha. Phải chăng bống bồng, bống bồng ơi! là tiếng lòng anh đến con trẻ? Hồn nhiên, anh hát, vì thực sự anh vẫn giữ được trong sâu lắng con người anh tâm hồn một trẻ thơ.

Chuyện người với anh, sau gia đình là bè bạn. Với bạn, Sơn chân tình và rộng lượng. Moa chơi với ai, là chỉ moa với người đó. Dẫu có kẻ nói này nói nọ, moa cũng mặc... Nhà Sơn lúc nào cũng rầm rập khách. Khách đến uống rượu của anh, lê la vài câu văn nghệ vui vẻ tìm chút tự tin. Khách đến, khoe cái này, chê cái nọ. Từ bốn phương. Từ Tây, từ Mỹ, từ Úc, Canada. Rất ồn và hỗn tạp. Nhưng bạn khác khách. Cô bé người nhà tên Síu ê a Cậu Sơn ơi... có cậu...đến chứ không phải, như khi gặp người lạ mặt, nói máy móc ...Dạ thưa, cậu Sơn con đi vắng! Nghe riết, một số chúng tôi thành cậu tuốt. Có cậu Đinh Cường. Sơn có lẽ yêu nhất cậu. Có một lần Sơn chép miệng ...Nó tròn quá, đầy quá. Chứ nó góc cạnh một chút thôi thì nó là grand maitre đấy! Ê, Sơn! Toa có thấy mấy bức họa vài năm sau này của Cường chưa? Góc cạnh đấy chứ! Có cậu Lữ Quỳnh. Cậu hiền lành nhỏ nhẹ hết lòng tận tụy với bạn. Có cậu Trịnh Cung. Cậu này là cái cậu kêu ...ừ thôi em về để cậu Sơn phổ nhạc (có lẽ là lần duy nhất?). Cậu ăn lẻ được thì cậu lỉnh đi ăn một mình nhưng xong lại hồn nhiên kể lại. Thỉnh thoảng vào chơi, có Bửu ý, người Sơn rất quí mến tin cậy. Vài năm cuối, có cậu Quế. Sơn nói với tôi Toa bảo xừ lũy cho moa nghỉ, moa mệt lắm. Tôi biết là Quế yêu Sơn, lại rất dai sức, lúc nào cũng cặp kè chuyện thơ văn. Nhưng đôi khi yêu nhau lại chẳng bằng mười phụ nhau...

Và lần cuối gặp, tôi hiểu là Sơn đã rất mệt, mệt nhoài. Thường Sơn ngồi trong ghế bành, mím miệng, mắt nhìn xuống đăm chiêu, có cái nét nghiêm nghị của một người kiệt sức. Anh ngồi, ai muốn nói gì thì nói. Anh có mặt, nhưng anh ở đâu? Những người khách quanh anh cứ thế, ô nhiễm ồn ào. Bạn anh, sợ khách, lảng và tìm những phút anh chỉ có một mình. Hiếm hoi làm sao những phút ấy. Hệ quả tất nhiên, anh cô đơn.

Bấy giờ, muốn gặp Sơn như bạn thì không thể gặp ở nhà Sơn. Tôi hẹn anh ở nhà Trần Long ẩn. Hôm đó, anh đi taxi lại, đầu chụp nón, dáng một chàng đạo sĩ lênh khênh xuống núi. Anh cười. Chỉ có ba chúng tôi, anh lại hồn nhiên như ngày nào. Sơn vui ra mặt, ăn được đến nửa bát phở ở cái quán nổi tiếng trong ngõ cạnh nhà ẩn. Bức tranh trên vách anh vẽ vợ ẩn đẹp lạ lùng, là một bức vẽ dang dở. Anh nói. Dở dang thế mà lại đẹp. Nắn nót, đâm hỏng... Một hai tiếng sau, Sơn nhìn giờ. Anh bắt đầu cau có Moa phải về, có tay X, Việt kiều luật sư ở bên Mỹ nó hẹn. Nó lo chuyện copyright cho moa... Tôi can ...thôi, lâu mới có một buổi sáng nhẹ thế này. Toa gọi điện thoại hẹn lại... Sơn ngần ngừ. Rốt cuộc, anh vẫn về. Mặt anh lại nghiêm, mắt đăm chiêu. Chúng tôi đưa anh ra con lộ chính. Người đạo sĩ vẫy taxi lên lại núi. Cái núi cao kia thành nơi ồn ào danh lam thắng cảnh. Thành một địa điểm du lịch cấp cao. Ôi hệ lụy! Danh vọng dẫn nhau đến chỗ ấy sao? Mệt ghê, mệt chết người.

Ngoài bạn bè, còn tình yêu trai - gái. Tôi đã thấy nhiều người đàn bà yêu Sơn. Một người đã định làm vợ Sơn than ....anh ấy yêu chai rượu hơn em! Có kẻ đến từ ngoài khơi, ở đâu đất Phù Tang xa lắc, đeo đuổi đến cảm động. Sơn nhận. Và cái anh cho lại, hình như là cái gì khác với tình yêu. Như anh - em. Đôi khi như bè - bạn. Với Khánh Ly. Với Hồng Nhung. Có lẽ chỉ trừ một lần. Anh đã sắm xe hơi và định lấy vợ thật. Lần này, a ha, vui được rồi đây. Nhưng không. Mối tình đó vuột đi. Chuyện lại xảy ra hình như sau sự ra đi vĩnh viễn của mạ anh, và có điều gì gần như niềm tuyệt vọng... Gần như thôi, chứ chưa phải là...Anh viết :

...May thay trong cuộc đời này vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có một khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quí hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không tái tạo được nữa.

Ru tình à ơi!
Viết về Sơn, không thể không nói nghệ thuật Sơn. Phần này, tôi nghĩ rằng nhiều người sẽ nói, còn nói. Tôi có thêm thắt, cũng là thêm thắt thôi. Với ca khúc, Sơn đi từ hình thức lãng mạn, sang siêu thực, mang mang chất Thiền để rồi cuối đời anh trở về với nỗi lòng anh một cách trực tiếp, giản đơn, không chút phù phiếm chữ nghĩa. Bàn với nhau về thơ, cách đây đâu mười năm, Sơn chủ trương không chơi chữ, viết ngắn (hai câu), chỉ một hình ảnh để dẫn đường cho một tư tưởng. Đó là những câu lục bát khi anh lang thang ở Paris, tôi giữ và đã trao lại Vĩnh Trinh. Đó là những câu lục bát khi anh lãng đãng ở Montréal. Anh không muốn phổ biến, anh cẩn thận, và anh không bao giờ nhận là nhà thơ. Mặc dầu, có lẽ anh là một nhà thơ lớn.

Nhà thơ lớn? Là thế nào? Tôi có nói với Sơn về một số hình tượng trong ca khúc của anh, dẫu cùng một cung bậc rung, vẫn là những hình tượng mới so với thơ Đường. Nhưng ngoài hình tượng, còn ngôn ngữ.

Sơn là người đầu tiên nói với tôi rằng cách phân chia động từ, tĩnh từ, danh từ đều phần nào giả tạo. Anh cố ý đảo, chẳng hạn như viết em hồn nhiên, rồi em sẽ bình minh. Bình minh không còn là danh từ mà thành tĩnh từ.

Anh thường sử dụng tính mơ hồ của ngôn ngữ, như ru ta ngậm ngùi. Ta ngậm ngùi, hay ru ngậm ngùi? Cả hai. Và mơ hồ nhân lên nhiều lần lượng thông tin trong ca từ Trịnh Công Sơn. Rất nhiều thí dụ như tôi vừa nêu ra. Anh giầu là vì vậy.

Sơn cũng là người có những cách ghép ngôn từ hết sức bất ngờ. Sóng lao xao bờ tôi... chẳng hạn. Sóng mà lao xao? Bờ, không phải bờ biển, bờ sông, bờ vực mà bờ tôi. Hoặc đêm gội mưa trong. Ghép chữ độc đáo tạo ra những kết hợp hình ảnh rất lạ. Như Chim... ngậm hạt sương bay. Như vuốt mái tóc bạc mà thành chập chờn lau trắng trong tay. Hoặc những câu hỏi siêu hình, hỏi ta xô biển lại, sóng về đâu?

Đếm tên ca khúc, ta thấy có ru và tình. Ru ta ngậm ngùi. Giọt lệ ru người. Ru em. Ru đời đã mất. Ru em từng ngón xuân hồng. Ru đời đi nhé. Ru tình. Tôi ru em ngủ. Tình thì bài nào cũng nhắc, nhưng tựa có Tình xót xa vừa. Tự tình khúc. Tình khúc ơ Bai. Tình nhớ. Tình xa, Tình sầu. Tình yêu tìm thấy... Nếu chịu khó đếm từ trong toàn bộ trên tám trăm ca khúc Trịnh Công Sơn, có lẽ ở bài nào cũng có chữ tình. Và về thân phận con người, rất nhiều hư vô, tuyệt vọng, tàn phai, mong manh... Tám trăm ca khúc? Bỗng nhiên tôi muốn làm một so sánh ( mặc dầu thấy mình lố bịch ). Với J Brel, G Brassen, với B. Dylan... Sơn của chúng ta có một độ dày so những kẻ nòi tình vừa kể trên. Đó, có lẽ vì Sơn trả giá để cho và chúng ta có cái may được nhận.

Hình tượng, ngôn từ...đến từ tài hoa. Điều kiện cần, nhưng chưa đủ để thành một nghệ sĩ lớn. Sơn lớn, theo tôi nghĩ, là vì Sơn dâng caủ trái tim để vẫy gọi chúng ta, những con người.

Bụi trong...

Trong 128 ca khúc in ở Tuyển tập những bài ca không năm tháng của Sơn, tự nhiên có những cái tựa rất lạ. Bống không là bống, Bống bồng ơi và Thuở bống là người. Trong ba ca khúc này, Bống ở nơi nao? Đi đâu mà vội? là những câu hỏi đi hỏi lại... Và ngỡ ngàng, Em đi bống về, em về bống đi, Tìm tình trong nắng. Em gặp cơn mưa. Tìm tình giữa ngọ. Buồn lưa thưa về. Rồi Ngày bống, mẹ bồng. Nhẹ quá tơ tằm, lay nhẹ bống bồng bông để kết cục Ngày xưa ngần ngại, xõa tóc trên vai. Hư vô bỗng về, câu thề đã bay... Tôi có cảm nghĩ Sơn hát bống bồng là hát cho riêng mình. Rất ngỡ ngàng, như trẻ thơ.

Ngỡ ngàng bởi nước đục, như chẳng thể khơi trong. Ngỡ ngàng, người với ngợm. Ngỡ ngàng bởi mong manh. Bởi chia ly, bởi phụ bạc. Ngỡ ngàng, với vinh quang tung hô, ca tụng trần trụi và những “cuộc đời hết sức ngây ngô”.

Ngỡ ngàng, anh nhận. Ngỡ ngàng, anh cho. Phải nói Sơn cho rất nhiều. Ngày Sơn chia tay đời, một người chị gái gọi cho tôi, bảo Sơn là người tình của cả triệu phụ nữ Việt Nam. Khi hôn mê giữa dở dang, bội bạc, sống chết, họ lắng nghe lòng và rồi họ hát Trịnh Công Sơn. Những tiếng hát về thân phận. Và về tình yêu. Nhưng dẫu ngỡ ngàng, Sơn không ngần ngại rủ chúng ta:

Hãy yêu như đang sống và sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại và sống cho tình yêu có mặt

Bởi thế, tôi xin với Tố Như rộng lòng cho phép đổi hai chữ lỡ làng của Người thành ngỡ ngàng cho Sơn. Và còn hai con mắt, tôi dành một con khóc người. Con kia, để tôi còn nháy với hư vô, vì bầy vạc ( í a ) bay qua, hát lời ( ối a ) mệnh bạc, từng giọt (í a) vô biên, trôi chìm ( ối à ) tiếng tăm.

Sơn suốt một kiếp ngỡ ngàng nước đục bụi trong. Và chắc Tố Như cũng đồng tình với kẻ hậu sinh này rằng hạt bụi trong ngần kia, như một nghệ sĩ lớn, đã trăm năm để một tấm lòng từ đây. Đó là cách duy nhất, như Sơn từng hát, tạ ơn người tạ ơn đời.



RE: Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ - lanhdien - 06-08-2012

Hai Kẻ Nòi Tình

[Hình: TCS-KLy-content.jpg]

...là Trịnh Công Sơn và Khánh Ly (TCS-KL). Tên họ, không cần nhắc. Bóng dáng họ, lẩn quất, vẫn đâu đây. Và trong tôi, hai lần hội ngộ.

Lần thứ nhất, ở Paris, năm 89 kỉ vừa qua. Chàng lần đầu viếng Kinh kỳ Ánh sáng, xuống máy bay về đến quán Monge thì đã say mèm để thoải mái ‘’giao lưu’’. Người thân trong gia đình Sơn lục tục từ Canada kéo qua. Những kẻ ngưỡng mộ bao vây. Sơn ở trên gác quán Monge, và không khí có cái sự sợ, sợ bị phá, thậm chí sợ Sơn bị ‘’ bắt cóc’’ trong cái tình huống găng go bên này-bên kia. Sơn tiếp tục uống. Rượu Tây, ngay trong một phim thriller, vẫn ngon hơn Lúa Mới, vodka nội. Hơn Ararat, rượu mạnh xã hội chủ nghĩa, uống quá chén là nhức đầu. Nhưng vẫn phải uống, má ơi! Bạn nào biên tập xin giữ hai tiếng má ơi và dấu than ! giùm tôi, tôi không say đâu!

Sơn hát ở Nhà Việt Nam, có Thanh Hải từ Đức qua góp tiếng. Vào hậu trường, thấy Sơn lại say rồi. Môi mím, mắt nhắm, chàng liêu xiêu, chân không chạm đất. Nhưng chàng vẫn hát. Và nói. Người vỗ tay, rầm rầm. Bớt, rồi hết sợ, chàng bắt đầu mỉm cười. Người em rể Sơn thì thào, tiếc quá, Khánh Ly chưa qua kịp. Sơn cất tiếng, như gọi: ‘’ em còn nhớ,hay em đã quên...Nhớ Sài Gòn, mưa rồi lại nắng’’. Lại vỗ tay, rào rào. Quá khứ nào chẳng có những nét đẹp ẩn những nhớ quên lãng đãng. Và cuộc gọi hồn nào cũng có những phút thần linh chao nghiêng cho lòng người bước vào một cõi đi về thăm thẳm.

Khánh Ly qua Paris thật. Tối hôm đó, tôi ở nhà Bạch công tử, người tổ chức chuyến đi của Sơn. Đang ăn, có điện thoại. Chủ nhà vội ra đi, chừng như hớt hải. Những người trách nhiệm nay lại lo ‘’bảo vệ’’. Cặp đôi TCS-KL hẳn nhắc nhở thời nhạc phản chiến ở Sài Gòn giữa thập niên 60. Và gợi lại thứ trí nhớ chai lì cảm tính của loại ngôn từ chỉ trỏ ‘’ những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ’’ mà tôi cũng từng có hân hạnh là nạn nhân. Nghe đâu bên kia sẽ biểu tình chống TSC-KL, bên này sửa soạn chống biểu tình, vận động những võ sinh một dojo Vovinam dàn chào khi cần. Đó là hậu chiến của một cuộc tương tàn không chịu chấm dứt. Bên này, ta. Bên kia, ngụy ( tiếng của nhà cầm quyền thời đó, và cho cả đến bây giờ). Má ơi, tiền đồn của tiếng gào âm u tiền kiếp. Đỉnh cao của trí tuệ mù lòa loài không đứng lên được làm người. Chao ôi!

Trong không khí căng như một sợi dây đàn chỉ chực đứt, Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly ở Paris là một thứ cơ mật. Tôi vốn không tọc mạch, không tìm, không hỏi. Và thế là không gặp Khánh Ly. Nhưng chính thế mà tôi lại hội ngộ với nàng ( gọi Sơn là chàng, nên bất tất gọi Khánh Ly là nàng với lòng trọng thị). Khi nàng về Mỹ ( về, về đất lạ, nghe mà đau xót) thì bão chừng lặng, và chỉ còn vài cơn gió xôn xao. Chàng bảo tôi ‘’ toa dẫn moa đi phố’’. Chúng tôi lẳng lặng đi, bắt Metro đến Boulevard St – Michel, bước dọc sông Seine ghé mắt vào những cuốn sách cũ bày trong những kiosque ven đường, nơi bác Nguyễn (Tuân) từng ao ước dừng chân lần bác được Nhà Việt Nam mời nhưng (hình như) bác không được Nhà Nước cho phép giang hồ. Tôi hỏi, Khánh Ly đi rồi, có nhớ không? Sơn ngập ngừng ‘’ nhớ chứ, nhớ cả một thời đáng lẽ phải quên!’’, và lại mím miệng như mỗi lần phải nói những điều ấp ủ.

A, cái thời phải quên là thời nào. Có phải thời Khánh Ly là nàng Mai hát ở một phòng trà trên Đà Lạt trong đêm mưa cao nguyên buồn lắng? Không đâu, có lẽ nào. Chắc chắn là thời nàng xuống núi, vào Sài Gòn những năm 66-67, đi chân đất hát cùng với chàng trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa, trên bục quán Văn xác xơ ghế bàn nhưng thấm đậm tình người. Và hát những ca khúc phản chiến. Sơn cho ra đời Ca khúc Trịnh Công Sơn năm 1966, và rồi Ca khúc da vàng (đầu 1967), Kinh Việt Nam ( 1968). Trong những cuộc xuống đường của thanh niên, sinh viên và học sinh đòi hòa bình, độc lập...anh đã xuất bản Ta phải thấy mặt trời năm 1970. Và khi Việt Nam hóa chiến tranh, độ tàn phá ngày một khốc liệt thì anh in tiếp Phụ khúc da vàng năm 1972. Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn có 5 tập, và là một số lượng nhỏ so với nhạc tình Trịnh Công Sơn khi đó đã có những tác phẩm đi vào lòng nhân gian như Ướt mi, Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Thương một người, Diễm xưa, Như cánh vạc bay... Trịnh Công Sơn đã thành danh trước khi nhạc phản chiến được phổ biến. Và phổ biến rộng. Qua những bản chuyền tay, băng cassette, trên sân trường, trong những quán cà phê, xa tít tắp ở chiến trường, và trong rừng núi hoang vu phía ‘’ta’’ như nhà thơ Nguyễn Duy kể lại đã nghe khi ‘’ta’’ ém quân chờ thời cơ ‘’giải phóng’’.

TCS-KL hát gì? Xin trích dăm ca từ trong Ca khúc da vàng.

Từ hiện thực trần trụi:

Ghế đá công viên
Dời ra đường phố
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi...

đến những giọt nước mắt:

...Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phải long đong


qua giai điệu uất nghẹn cho cuộc trần ai:

... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
còn có ai
không còn người...


và rồi, chết thì :

...xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng
trên nóc nhà thành phố, trên nhữngđường quanh co
xác người nằm chơ vơ, dưới mái hiên chùa
trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu...


Nhưng ám ảnh là những câu hát siêu thực, hình thể văn chương vứt vào ao tù thứ ngôn ngữ duy lý, thét gào tâm cảnh phi lý, thậm chí bệnh hoạn, của một thời bình thường-là-bất-khả:

,,,mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
chị vỗ tay hoan hô hòa bình
người vỗ tay cho thêm thù hận
người vỗ tay xa dần ăn năn


Hát những ca từ trên, hát thế nào? Thanh Thúy? Chị hát Thương một người, tuyệt vời. Hay Lệ Thu? Ướt Mi, chắc bất hủ...

Còn Ca khúc da vàng, âm sắc thế nào cho hòa nhịp với chất trong ca từ. Phải hát như con trẻ vừa lớn, còn hồn nhiên, nhưng nay đối mặt với một thực tại bi thương. Phải hát giọng những âm hồn chưa muốn rời dương thế, hát để chống lại tai ương chết chóc. Phải hát, như cầu kinh, những bài kinh gầy lửa hy vọng và đánh thức sức tồn sinh để đối mặt vào sự hủy hoại đầy nghịch lý nhưng không khoan nhượng của con người với con người. Những con người cùng một mầu da. Da vàng.

Khánh Ly đã hát như thế, giọng đến từ một thế giới bên cạnh cõi chết, nơi thần linh cũng như yêu ma còn đó, một bên nhắc nhở rồi ta phải thấy mặt trời, bên kia tung hô ca ngợi hận thù của những màn đêm u mê.

Khánh Ly đã hát như thế, bởi nàng cảm được nghệ thuật của họ Trịnh. Cảm được nỗi lòng họ Trịnh.

Khánh Ly hát được như thế vì nàng đồng thời tiếp cận sâu sắc cái thảm thương của một thế sự thăng trầm qua xương máu của hàng trăm ngàn sinh linh bơ vơ trên một chặng đường vô định.

Khánh Ly hát để cùng Trịnh Công Sơn đối kháng hiện thực bằng cách dựng lời kêu than cho thời đại:

... người nằm co như loài thú khi mùa Đông về
người nằm yên, không kêu than buốt xương da mình
từng tiếng người, nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm...
người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
người ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay...


Khánh Ly hát như thế, và nàng đánh một dấu ấn vào cái chặng đường khốn khổ của lịch sử mà Trịnh Công Sơn mím miệng thốt là một thời đáng lẽ phải quên. Nàng , kẻ nòi tình, hiểu và đi chân đất trong những quảng trường cất tiếng hát liêu trai. Đuổi u mê. Bắt nắng muộn. Với trực giác một ngày mai, và với bản năng đàn bà ươm sự sống, nàng đã gặp một kẻ cũng nòi tình, trắng tay trắng lòng, mang thơ vào mong dỗ yên những tai ương máu lửa. Cơ duyên cho hai kẻ nòi tình gặp nhau không to hơn một hạt bụi trong ngân hà. Nhưng hạt bụi đã có. Và một khi chiến tranh còn trên trái đất quá quắt này, tiếng hát cho hòa bình và cho phận người nhỏ nhoi cần cưu mang vẫn cứ vang vọng thiết tha. Phải chăng đó là phép lạ? Và là nguyên nhân khiến hai cái tên TCS-KL kết thành một chuỗi liên từ không tách ra được.

Tôi đã nói về lần đầu không gặp Khánh Ly, nhưng lại hội ngộ trong tâm tưởng, bên bờ sông Seine với Sơn, một Khánh Ly tôi chỉ thoáng thấy từ xa ngày ở Paris.

Lần thứ hai, tôi gặp Khánh Ly bằng da bằng thịt, trên gác quán ăn La Famille Vietnamienne ở khu Duluth, thành phố Montréal. Đầu năm 1992, Sơn qua thăm các em một thời gian sau khi mạ Sơn mất. Theo lời kể của Vĩnh Trinh, cô em út chàng trân quí, Sơn bị sốc. Hình ảnh mạ Sơn đứng rình nơi cửa sổ nhìn ra vườn treo hay nhìn xuống phòng ăn vì lo Sơn uống quá nhiều lại hiện ra. Bà xưa dặn dò tôi :‘’ con đừng để Sơn quá chén, hại gan lắm!’’. Còn Sơn, chàng yêu mạ lạ lùng, kể lể ‘’ bài nào mới moa cũng hát lần đầu cho mạ moa nghe, mạ bảo được thì moa mới phổ biến’’. Ngày chôn mạ, Sơn gào khóc níu quan tài, không cho mang đi. Tôi nghe thuật lại, sợ chàng quị mất. Nhưng khi biết Sơn qua Montréal, tôi yên tâm. Lái xe từ Québec cách Montreal đâu 250 cây số lên thăm bạn ngay, tâm trí lang mang thế nào mà giữa đường xe hết xăng, tôi phải gọi xe cẩu.

Sơn vẫn gầy gò nhưng nhìn khí sắc có chiều tươi tỉnh. Chúng tôi có những ngày tương đối yên tĩnh. Không như ở Paris. Không như ở Sài Gòn, người và ruồi tấp nập. Sơn kê giá vẽ. Khi đến với bạn, tôi ngồi một góc, lặng lẽ nhìn. Ôi, quí làm sao những giây phút vô ngôn. Chúng tôi gọi là những phút ngồi đồng. Bấy giờ, ngôn ngữ trở thành vô tướng. Tư tưởng, vô tăm. Chỉ có gì như một thứ năng luợng thật nhẹ, mảnh mai, không mà như có. Tác động? Sau, có thể cả một thời gian dài, nó làm người ngồi đồng suôi đến những nơi hư thực trộn vào nhau biến cái ngũ quan nhìn, ngửi, sờ... thấy thành một chuỗi những sáng tạo. Ngôn từ, văn và thơ. Họa, vẽ tranh. Còn gần được cõi trên, là tạo âm. Nhạc gần với Thượng Đế nhất. Đời tôi, chỉ hai người mang đến cho tôi sự cộng hưởng năng lượng huyền diệu đó. Một là Trịnh Công Sơn. Và hai, là Trần Dần.

Một sáng thứ bẩy, tôi lò dò leo thẳng lên nơi Sơn ở. Từ trong phòng, Sơn lênh khênh đi tới, mặt sáng rỡ, nói ‘’ Edith Piaff của moa tới chơi’’ . Cửa phòng mở, và Khánh Ly bước ra. Mở ngoặc, Edith Piaff là một danh ca người Pháp nổi vào những năm 50-60, người đã lancer những chansonnier tài danh như C. Aznavour, C. Leveillé... Chỉ nhìn Sơn, tôi biết bạn mình đang hạnh phúc. Và nghe Khánh Ly chuyện trò với Sơn, tôi hiểu họ là hai người bạn ở cái nghĩa đẹp nhất. Sơn trìu mến nàng với tấm tình một người anh trai. Và Khánh Ly viết ngày Sơn lìa xa cõi này rằng ‘’ từ ông tôi thành danh và quan trọng hơn cả là tôi được thành nhân.... ông Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của tôi'’, thì, đối với nàng Trịnh Công Sơn còn hơn một người anh, và chỉ có thể như một người cha.

Buổi tối, chàng lãng tử Phạm Nhuận mời. Trong một tiệm ăn ở phố Tàu, chúng tôi quây quần, có anh em Hoàng xuân Sơn, Hoàng xuân Giang, cũng bạn Khánh Ly từ thời quán Văn ở Sài Gòn. Khi chỉ còn chúng tôi là những thực khách cuối cùng, Khánh Ly và hai anh em Sơn và Giang leo lên cái bục gỗ nơi thường dành cho những cặp mới cưới hỏi. Ôm ghi-ta, họ hát. Như những ngày xưa. Thời của tuổi trẻ hồn nhiên. Thời của một thời chẳng thể quên. Sau này, Hoàng Xuân Sơn kể, Khánh Ly đến chơi với anh em Quán Văn lắm khi ở qua đêm, rất bụi, có gì ăn nấy, không điệu bộ kiểu con gái. Khánh Ly từng viết: ‘’... một dĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cà phê cùng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhàu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh em nẩy mầm từ đó. Quán Văn cái tên dễ nhớ và dễ thương...Mỗi người tới tùy tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi-măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp nhất của một thời tôi còn trẻ...’’ (Tạp chí Văn Nghệ, số 1 -2000)

Đấy, Khánh Ly như vậy đó. Và tôi hiểu thêm một nguyên nhân khiến TCS-KL là một từ kép gắn bó. Cả hai thật trong và sáng. Họ cùng một chất nòi tình. Nên cơ duyên nhỏ như hạt bụi trong ngân hà đẩy họ vào một trường hấp lực khiến họ keo sơn với nhau chẳng qua cũng chỉ là chuyện xưa như Diễm.

Thời gian sau đó Sơn, Khánh Ly và Vĩnh Trinh hát, thu băng nhằm ra một loạt CD. Ở xa, và vốn ít thích nhộn nhịp, nhớ bạn tôi chỉ điện thoại hỏi thăm. Đầu tháng 4, Sơn nói, giọng rầu rầu ‘’ Khánh Ly về rồi, lên chơi với moa đi! ”

Chúng tôi thả bộ dọc Mont Royal. Cuối con đường, băng Park Avenue, đỉnh đồi nhô cao, trên đó cây thánh giá người đời thắp sáng mỗi đêm chọc thẳng vào bầu trời trong xanh buổi tàn đông. Tuyết bắt đầu tan. Dọc lối lên dốc, những bông crocus mỏng mảnh tím biếc trồi ra khỏi những lớp tuyết đọng long lanh dưới mặt trời. Trong chiếc áo ngự hàn thùng thình, Sơn lướt tới, bước liêu xiêu như một đạo sĩ bay lên rồi đáp xuống bên những bông hoa. ‘’ Lạ hỉ? Làm sao nó mọc được trong tuyết ? Nó tên chi?’’. Tôi gọi crocus là hoa tầm xuân, loài hoa báo hiệu mùa đầu một chu kỳ tuần hoàn mới của đất trời. ‘’ Tầm xuân bên mình mầu xanh. Bên ni lại tím, thật kỳ diệu...’’ Sơn trầm mặc. Chúng tôi lên dốc. Một lúc sau, Sơn nói như chỉ cho mình nghe: ‘’ không chi cản được mùa xuân đâu!’’.

Gần đỉnh đồi, chúng tôi băng ngang khuôn viên không một vết chân trên tuyết chưa tan. Đi qua một bức tượng đồng, Sơn đứng lại đọc tên rồi hỏi : ‘’ Ai vậy? ‘’ Tôi đáp, tên một thi sĩ. Anh nhắc kỷ niệm ngày anh đến thăm tôi ở Québec. Bữa tôi dẫn anh vào thăm Đại học Laval, một tảng đá cao chừng 5,6 mét, ngang 2,3 mét đặt ngay ở lối vào một pavillon giành cho sinh hoạt của sinh viên. Trên tảng đá, người ta đục những dòng chữ của Pablo Neruda: j’avoue que j’ai vécu1. Anh lẫm nhẩm hôm đó, moi aussi, je l’avoue2. Anh vui vui : ‘’ Thành phố toa ở là nơi có văn hoá! Nơi không cần những anh hùng...’’ Trước một tôi ngỡ ngàng, anh kể: ‘’ moa không nhớ ai viết, rằng khốn khổ thay cho những đất nước nhiều anh hùng!’’

Chúng tôi lại đi. Sơn thình lình ngừng bước, giọng ngùi ngùi: ‘’ chỗ này là nơi Mai chụp hình với moa mùa tuyết qua. Hình tính làm bao bì cho CD...’’. Rồi Sơn ngập ngừng: ‘’ viết cho moa về Mai và những thành phố không cần anh hùng ! ‘’. Tôi hồi tưởng thời anh cũng từng nói tôi viết hộ vài dòng cho Michiko, một người con gái đất Phù Tang đã tha thiết yêu anh. Chữ nghĩa Sơn thừa, cớ gì phải nhờ viết hộ nhỉ? Chiều bạn, tôi gửi anh:

Ngày Mai đến

Chăng tơ cho nhện
nhả thơ vào đời
Vết chân anh trên thành phố-không-cần-có-anh hùng

Kén vàng ươm nắng cuối đông
cánh bướm mượt mà gió đợi
Góc công viên tuyết nõn nà trắng tới mênh mông

Anh lại cất tiếng hát
để đêm giật lùi vào nơi không ai đặt tên
vì ngày mai
ngày Mai lại đến

Tiếng hát của Núi
đưa nắng Mai lên
xua đi những bóng đêm thừa thãi
Những bóng đêm không có bóng con Người.


Mai là Khánh Ly, và Núi là Sơn. Thành phố-không-cần-có-anh hùng thì tôi vừa nhắc đến rồi. Năm 1998 tôi về Sài Gòn, Sơn kể anh viết và đăng báo ( Tuổi Trẻ?) một bài về chuyến đi Canada, có một đoạn về cái thành phố không cần có anh hùng đó. Cười buồn, anh tiếp, thế là bị Tuyên Huấn TP HCM đánh tơi bời hoa lá.

Ngày tôi hỏi nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo thuở sinh thời cái tên phố nơi anh ở là Huỳnh Văn Bánh thì anh có biết ông Bánh này làm chi không? Anh cười tinh quái, đáp chắc lại là một anh hùng hay liệt sĩ, loại này ở đây đông lắm, nào là Lê văn Sĩ, Nguyễn thị Bé...Ai biết được họ làm gì, chỉ chắc một điều là họ đã hy sinh, thế thôi...

Đất nước ta mà.

Đầy bóng ma của những người chết hai lần, ba lần mà chưa siêu thoát. Đầy tên đường, những tên vô âm hưởng. Và tiếng xe. Và bụi bặm một thời chưa hẳn qua. Một thời đáng lẽ phải quên, nhưng vẫn chưa được!

Nam Dao
9-2011