Góc Miền Trung - Phiên bản có thể in +- Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum) +-- Diễn đàn: Tửu Lầu (https://thiamlau.com/forum/forum-5.html) +--- Diễn đàn: Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum/forum-6.html) +--- Chủ đề: Góc Miền Trung (/thread-241.html) Pages:
1
2
|
Góc Miền Trung - lanhdien - 12-01-2011 Là nơi các bạn gởi những dòng cảm xúc bất chợt đến khúc ruột Miền Trung chúng ta, bằng những lời thơ giản dị hay những bài viết mộc mạc nhưng rất chân thành...và cũng có thể là những bài thơ sưu tầm mà chúng ta từng thích. Chiều Miền Trung Ta về lại bên vườn xưa đã cũ Bến sông già cũng đợi bóng ta soi Buổi chiều vàng tô hoàng hôn thắm đẫm Như khoác lên đời tấm áo rêu phong Ta về lại hàng cau già ngơ ngác Gặng hỏi ta đã kết trái duyên tình? Lá trầu xanh vẫn cay nồng lên mắt Chợt thấy lòng trĩu những bâng khuâng. Chiều Miền Trung mây chùng buông áo rũ Lũy tre già xõa tóc uốn lưng đưa Ta thầm hỏi: Em chừ nơi mô đó? Tóc còn xanh hay đã nhuộm mây buồn. Con đò chiều đứng lặng im trên bến Mặc sông xưa trăn trở xuôi dòng Như đất nghèo cam chịu những gieo neo Để thời gian lướt qua đời hối hả Em bây chừ đã già lên trước tuổi Nhịp thoi đưa thấm thoát đã mười năm Ta chỉ đứng lặng nhìn không dám nói Nói điều chi khi bóng ngã qua cầu? Bước xuống vườn thấy đồng ươm vẫy gọi** Giục hồn ta sống lại buổi xuân thì Bầy cò trắng bay về nơi xây tổ Lúa nghiêng mình trĩu những hạt vô ưu Ta về lại cố tìm nghe câu hát Điệu hò khoan vọng bến sông chiều Chợt bâng khuâng đắng lòng nghe ai hát *“ Chiều Miền Trung mưa tím bến sông…” *“ Chiều Miền Trung mưa tím bến sông…” là câu từ trong bài hát Mưa Chiều Miền Trung của Nhạc sĩ Hồng Xương Long **(ý thơ Dương Quang Anh) Bài thơ Cửa Đại - lanhdien - 19-01-2011 Nếu em bảo rằng đây là cửa đợi Thì anh xin làm con nước sông chờ Mai mốt nữa quăng hành trang thiên lý Chắc rằng anh sẽ tìm được bến bờ Em biết đó nước từ nguồn ra bể Sông miệt mài mang tinh thể phù sa Cũng như anh ôm hoài mong nỗi nhớ Về cho em “ hôn “ quí giá hơn quà Nếu em bảo rằng đây là cửa Đợi Thì cho anh xin làm bến đò mong Nhỡ mai kia thuyền không về cổ độ Làm đa già anh đón ngọn thu phong Vì anh sợ nước bỏ nguồn ra bể Nhập đại dương xuôi theo sóng vô tình Mà nơi đó là mù khơi phiêu lãng Biết rong rêu hay ghềnh đá thương mình Rồi khi đó hoài mong và ngóng đợi Đối với ta còn có nghĩa gì đâu Thôi cứ gọi rằng đây là cửa Đại Đến bao giờ ta biết đợi chờ nhau ( Cửa Đại thu 74 ) Dương Quang Anh RE: Góc Miền Trung - TieuChieu - 23-03-2011 Trời Mưa ở Huế Nguyễn Bính Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói Trời mờ ngao ngán một loài mây. Trường Tiền vắng ngắt người qua lại Ðập Ðá mênh mang bến nước đầỵ Ðò vắng khách chơi nằm bát úp Thu về lại giở gió heo may... Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội Bốn tháng hình như kém mấy ngày Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh Ðể rồi nằm mốc ở nơi đây Thuốc lào hút mãi người ra khói Thơ đọc suông tình hết cả hay Túi rỗng nợ nần hơn Chúa Chổm Áo quần trộm mượn, túng đồ thay. Hàng xóm có người con gái lẻ Ý chừng duyên nợ với nhau đây Chao ơi! ba bốn tao ân ái Ðã đủ tan tành một kiếp trai. Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ! Ðành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày Khăn gói gió đưa sang xứ lạ Ai cười cho được lúc chia tay? Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ? Mà nhớ mà thương đến thế này! Cố nhân chẳng khóa buồng xuân lại Vung vãi ân tình khắp đó đây. Mưa chiều, nắng sớm, người ta bảo Cả đến ông Trời cũng đổi thay Gia đình thiên cả lên thành thị Buôn bán loanh quanh bỏ cấy cày "Anh em cánh nhạn người Nam Bắc Tâm sự hồn quyên lệ ngắn dài..." Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày Hôm qua còn sót hơn đồng bạc Hai đứa bàn nhau uống rượu say Nón lá áo tơi ra quán chợ Trơ vơ trên bến nước sông đầy Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả Chén ứa men lành lạnh ngón tay. Ôn lại những ngày mưa gió cũ Những chiều quán trọ, những đêm say Người quen nhắc lại từng tên một Kể lại từng nơi đặt dấu giầy Trôi dạt dám mong gì vấn vít Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự Cúi mặt soi gương chén rượu đầy Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ Ðôi lòng hòa một vị chua cay Ðứa thương cha yếu thằng thương mẹ Cha mẹ chiều chiều... con nước mây Không hiểu vì đâu hai đứa lại Chung lưng làm một chuyến đi đầy? Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày... ********* MƯA HUẾ Trương Duy Nhất Quá lâu rồi mới hưởng món đặc sản mưa của Huế. Đà Nẵng đang nóng, nóng như nung. Vậy mà chạy ra đến Huế thì mưa. Mưa xối xả trắng trời. Mưa như thể vỡ trời, như thể một mảng trời khổng lồ bị thủng, như ông giời có bao nhiêu nước đem trút hết xuống Huế vậy. “Những ngày mưa Huế, chi mô rứa!” (Trần Hữu Hoàng). Đúng là mưa Huế mưa chi lạ. Mưa tối trời thối đất. Mưa từ sáng đến trưa. Mưa đến tối mịt. Mưa ngày mưa đêm. Mưa dầm suốt tháng. Mưa phả kín Hoàng thành. Mưa vuốt mặt không kịp, cất mặt không lên. Mưa đến mức không thấy ai ra đường. Mưa vãi nát nhàu dòng Hương và xóa mất dải Tràng Tiền. “Nếu mưa hoá kiếp làm thi sĩ” (Hải Bằng). Mưa thế này thì ra… thơ mất! Ngồi bên đường Lê Lợi, tôi trêu mấy đứa bạn Huế: Mưa thế này mà không làm thơ mới lạ! Và có lẽ, không chỉ kiến trúc, không chỉ đền đài lăng tẩm, mưa mới là cái hồn của Huế, là thứ để UNESCO công nhận Huế là thành phố thơ, là cố đô di sản. Thơ về mưa Huế toàn những câu buồn: “Giời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày” (Nguyễn Bính), “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên” (Tố Hữu), “Chiều ni xứ Huế dầm mưa/Sen gia đôi cụm lưa thưa mặt hồ/ Một người biền biệt nơi mô/Hoàng thành trầm lặng, cố đô não nùng." (Mai Văn Hoan)… Cũng chẳng nơi mô mưa cũng biến thành quà- quà Huế: “Khi mô anh về thăm Huế xưa/Nhớ gói giùm em một chút mưa/Gói thêm mớ lạnh từ chân tóc/Buốt thấu buồng tim vẫn chưa bưa” (Hồ Đắc Thiếu Anh). Mưa là đặc sản kỳ thú của Huế. Tất nhiên rồi. Nhưng làm sao để đãi khách món mưa ấn tượng này? Những vỉa đường ngắm mưa. Nghe nói đó là ý tưởng của nhà văn Trần Thùy Mai. Chị đã gợi ý rồi nhưng Huế chưa làm được. Những vỉa đường Huế sẽ có mái che, đó là những vỉa đường ngắm mưa, để ai ai nếu muốn đều có thể thong dong suốt tháng ngày giữa thành phố mưa não nề này. Đặc sản Huế là đó. Sản phẩm du lịch cho Huế là đó chứ đâu xa ? Giản đơn thế, dễ dàng thế, mà cũng tuyệt vời thế- Sao Huế không làm được nhỉ ? Chẳng mưa nào như mưa Huế. Mưa kéo sập trời, như cuốn cả mây tràn mặt phố. Ai đó đã bảo: trời- đất và con người giao hoà với nhau tại Huế. Cái thời khắc giao hòa thiêng liêng đó lên đỉnh nhất đúng vào những lúc mưa vỡ trời vỡ đất như thế này đây. Bỗng nhiên không muốn mưa dứt nữa. Bỗng nhiên thấy hụt hẫng, tiêng tiếc, thiêu thiếu một điều gì đấy sâu thẳm lắm- nếu chợt mai này Huế vắng… những cơn mưa. RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 24-03-2011 Một chút với Vinh Lê Duy Cường Sáng góc Thành cổ ăn cháo lươn đội mũ cối uống nước chè xanh nói chuyện "tanh bành" Chiều Cửa nam mời nhau bát bánh canh xương nói chuyện thị trường Giá cả leo thang Riêng mắt o em nhìn xuống Trưa và tối ở Vinh vào quán cơm bụi nào cũng có cà và có cả cá Lại giọng sợ nhầm con bơi và cái quả Thích mắt nên mê nụ cười dù chỉ thoáng qua Những cô gái Thành Vinh hình như chạy xe "hơi nhanh" như ai? đánh mắt cười duyên như gọi ai? Và Thành Vinh những cô em đã trẻ lại càng xinh tráng bánh mướt suốt ngày Nhiều đàn ông ghé ăn Bình thường là có cả tôi Và chuyện này cũng có ở Vinh: Xa cách khiến cung đường trục trặc "Chú" thương "em" mà! "cháu" cũng ưng "anh" Nên lâu nay Vinh mang thành cổ trong mình L D C RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 01-07-2011 Về Thôi Em Em ra không mai anh về đất Quảng, Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao. Thèm chi mô một chén rượu Hồng Đào, Dẫu chưa uống chỉ say từ câu hát. Em ở biển ngọn khoai trườn nỗng cát, Anh trên nguồn đá chẹn củ mì eo. Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo, Vẫn khen đất mình chưa mưa đà thấm. Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm! Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo. Cả một đời quảy gánh gieo neo Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển. Đất dễ thấm dễ mềm lòng quyến luyến Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay, Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả! Về thôi em, bận lòng chi xứ lạ, Sông Thu ta dù bên lỡ bên bồi, Dù mỗi năm mỗi nước lụt cuốn trôi Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi... Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải Cha mẹ trông ta mòn Hòn Kẽm Đá Dừng... Dương Quang Anh (Sài Gòn cuối năm 1996) RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 01-07-2011 Về quê nghe tiếng chim bắt cô trói cột Về vườn xưa nghe tiếng chim bắt cô trói cột Ngỡ ai treo ký ức ở trên cành Ta mòn gót đi cùng trời cuối đất Tóc trên đầu hao hết nửa phần xanh Ta xuống đồng lúa mừng reo vẫy gọi Cánh cò chao nghiêng ướm hỏi đôi điều Ừ, nơi đây ta từng gieo kỷ niệm Ai gặt mất rồi thuở tuổi xanh yêu Ta cứ ngỡ quê nhà xưa vẫn vậy Còn người thương gội bồ kết ước lưng ong Trăng vẫn cũ con đường xưa lại mới Hết đá vấp chân sao nghe nhói đau lòng Biết sao được chuyện của đời dâu bể Sông có tự ngàn xưa nay cũng chuyển xoay dòng Núi sừng sửng cũng trọc đầu mỏi mệt Huống chi ta chỉ một kiếp long đong Chim chỉ gọi chẳng bắt ai trói buộc Cớ sao ta vùng vẫy đến rã rời Đứng giữa vườn xưa buồn vui không nói được Kêu chi hoài não nuột lắm chim ơi Dương Quang Anh RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 04-07-2011 Sao chim Dồn Dột chẳng quay về? Chim dồn dột bay đi từ dạo đó Mày giận chi ai mà chẳng quay về ? Để nghe buồn man mác xóm làng quê Tre vẫn xanh chim chẳng reo dệt tổ. Ruộng đồng làng ta qua rồi mấy độ Lúa vẫn ươm vàng trĩu hạt như xưa Chỉ thiếu tiếng mày reo hót ban trưa Cành ngơ ngác tổ không còn lủng lẳng. Đứng giữa vườn ta cúi đầu trầm lặng Dồn dột đi mang cả tuổi thơ ta ! Ký ức hiện về một thủơ xưa xa Mang vớ tổ chim xuống đồng u mọi. Bạn bè đâu - chỉ mình ta trơ trọi ? Thèm tiếng chim dệt tổ hót lưng trời. Ta phân vân khẽ gọi : - Dồn dột ơi ! Mày khúc mắc điều chi - ta chẳng hiểu ? Ta lang mang ngỡ mình như Thôi Hiệu * Nhớ hạc vàng mây trắng mịt mù bay ... Dương Quang Anh Thôn 8 - Bình Lâm - Hiệp Đức - Quảng Nam Xuân 2008 RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 04-10-2011 Lũ lụt trong những Tâm hồn thơ Xứ Quảng Trần Trung Đạo Trong văn thơ Quảng Nam, nếu mì Quảng được nhắc bao nhiêu lần trong văn thì lũ lụt có lẽ cũng được nhắc nhiều lần như thế trong thơ. Cả hai được xem như là đặc sản Quảng Nam. Nước lũ, nước lụt, nước lớn, nước ròng hình như có trong thơ của hầu hết các nhà thơ xứ Quảng, không chỉ để mô tả nỗi đau, sự chịu đựng mà nhiều khi còn dùng để tả sự chờ đợi, đổi thay, ngăn cách đôi dòng. "Tình ơi, Giao Thủy hai nguồn nước gặp gỡ nhau sao chẳng đợi chờ ?" là thế. Trong phạm vi đất nước, lũ lụt là một thực tế rất hiển nhiên. Không chỉ những người sinh ra trên những cánh đồng khô cháy ở Duy Xuyên, Quế Sơn, Đại Lộc, lớn lên bên bờ sông Thu, khóc khi mùa nước lên, than khi cơn bão tới mới hiểu thế nào là đau thương đói khổ mà gần như người Việt Nam nào cũng biết rằng ở giữa thân hình đất mẹ hình chữ S, có một vùng đất gắn liền với hai chữ thiên tai bão lụt, nơi đó, con người sống trong nỗi bất an chờ đợi một tai họa sẽ trở lại mỗi năm: Năm năm mỗi độ đông vừa chớm Xóm dưới làng trên ngại lụt nhiều Dòng nước Thu Bồn thành nỗi sợ Khi rừng xa vọng thác vang reo. (Tin bão miền Trung, Tường Linh) Lũ lụt, thật vậy, là nỗi lo sợ và nỗi ám ảnh thường xuyên trong tâm trí của người dân Quảng. Khi nhắc câu hát "Trời hành cơn lụt mỗi năm" người nghe sẽ nghĩ ngay đến miền Trung nghèo khó và nghèo khó nhất vẫn là Quảng Nam. Câu hát cất lên như một tiếng than dài vọng suốt mấy trăm năm: Em về ở lại đây thôi! Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng Một trăm cây lá bên rừng Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây. (Tiếng vọng, Bùi Giáng) Nhưng em không ở lại. Em chết và những đứa con thân yêu của nhà thơ cũng chết. Những bàn chân nhỏ nhoi của vợ và con đã "chết trên bờ lúa" in sâu vào tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ mang nỗi buồn thiên cổ ra đi, bỏ lại bầy dê, bỏ lại cánh đồng. Nỗi cô đơn sâu thẳm một ngày đã nở thành những chùm hoa trác tuyệt và nhiều huyền thoại nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Nhưng dù có đi bao xa và dù có sống với trạng thái tâm lý ngao du trong thế giới tư duy xa cách với phần lớn con người, trong tâm hồn nhà thơ vẫn còn có một nơi vô cùng trang nghiêm, vô cùng yên tỉnh, một nơi có cánh đồng xanh, có vườn lá biếc, một nơi mà nhà thơ vẫn mong có ngày trở lại, một nơi được nhà thơ nhắc rất nhiều lần. Nơi đó chính là "cố quận": Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ Ngó bên kia vườn biếc lá hoa lừng Ồ vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng (Bến đò ngàn xuân cũ, Bùi Giáng) Nước, nước lũ, nước dâng cao, nước cuốn…đến không từ đâu khác hơn là sông Thu Bồn, chảy dài hàng trăm dặm từ Trà Linh xuống Hội An. Sông Thu có thể không quá dài so với nhiều con sông lớn khác ở ba miền nhưng đẹp hơn cả một bức tranh thủy mạc. Bao nhiêu văn, thơ, nhạc đã chảy ra từ dòng sông đó. Phía sau những rặng tre già nghiêng mình soi bóng, những bãi dâu xanh ngát dọc bờ sông, nhiều nhà thơ xứ Quảng đã sinh ra, lớn lên và ra đi theo nhiều chọn lựa khác nhau. Họ khác nhau về thế hệ, hoàn cảnh trưởng thành và nhiều trường hợp khác nhau cả về chính kiến nhưng tất cả cùng có một tình yêu tha thiết dành cho dòng sông nuôi lớn tâm hồn yêu người như cả yêu quê hương của họ. Tha thiết đến nỗi nhiều nhà thơ khi chết đi chỉ mong làm hạt phù sa trên sông Thu để bồi đắp lên mảnh đất cày lên sỏi đá. Giờ này, mấy chục năm sau, trên căn gát nhỏ ở Orange County, San Jose, Atlanta, Memphis, Seattle, Houston, Tampa hay một nơi nào trên xứ lạ, khi ngồi nhớ đến sông Thu, các nhà thơ xứ Quảng hẳn nghe lòng quay quắt rưng rưng. Tuổi thơ như nước Thu Bồn trôi đi, đi xa không trở lại. Những bài thơ đầu đời viết bằng viết lá tre trong cuốn vở học trò lưu niệm có thể đã bị cháy rụi trong chiến tranh. Tiếng guốc đã không còn khua trên những con đường lát sỏi Phan Chu Trinh, Cường Để Hội An. Hàng cây sao đã bao mùa thay lá bên kia sân trường Phan Chu Trinh, Phan Thanh Giản, Nữ Trung Học Đà Nẵng. Những trụ đèn đêm trước cỗng trường Sao Mai, Đông Giang, Bồ Đề, Pascal không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và cũng của đời mình đã phủ kín bụi thời gian. Nhưng ký ức thì không. Ký ức vẫn còn đó. Vẫn nguyên vẹn hình ảnh những buổi chiều "nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Điện" hay ngồi ngâm nga "tôi đưa em sang sông" trên bến phà An Hải. Nhà văn Hà Kỳ Lam viết về dòng sông Thu Bồn, nơi nuôi lớn tuổi đầu đời của anh vô cùng tha thiết: "Tuổi thơ của tôi gắn liền với sông Thu Bồn. Tôi biết dòng sông vẫn thấp thoáng qua bờ tre trước nhà ông bà nội tôi từ thuở lên ba, khi gia đình tôi từ Cần Thơ hồi hương về làng Kỳ Lam sau khi bố tôi qua đời. Tôi đã uống nước sông ấy, tắm nước sông ấy, và lớn lên bên dòng sông ấy. Dù sau này bước chân tôi đã đi "cùng trời cuối biển", cái không gian tuổi thơ của tôi bên dòng nước ấy vẫn được tồn trữ trang trọng một cõi riêng trong lòng, ở đó cái diệu vợi của không gian, cái vô tình của thời gian cũng phải nhường bước. Cái không gian ấy trải dài hai bên dòng sông, từ vùng đồng bằng Kỳ Lam ngược dòng lên Tĩnh Yên, Khe Cát của Duy Xuyên, đến Phú Gia, Hòn Kẽm Đá Dừng của Quế Sơn, chứa đựng những tên làng mạc mà hầu như mỗi lần nghe nhắc đến thì cả một khung trời kỷ niệm hiện về trong tôi. Hôm nay viết về dòng Thu Bồn, tôi muốn cùng quý độc giả chu du trên dòng nước trong khung trời ấy qua trí tưởng để tôi có dịp nhắc đến những địa danh thân thương kia như một chút tình hoài hương..." Khi ngồi lại bên bờ sông viễn xứ, nhà thơ Quảng Nam nào mà không chạnh nhớ đến sông Thu và không cảm thấy thương những nhánh sông quê hương như thương chính cuộc đời mình: Quê ta có sông Thu không cầu danh cũng biết nuôi người và thương mình cả đời ta ước như sông ấy chảy giữa tình yêu chảy quẩn quanh. (Nói với dòng Mississippi, Hoàng Lộc) Riêng em tôi còn nhớ mãi ngây thơ ánh mắt ngập ngừng Sông Thu bao giờ trở lại mưa nguồn gío biển rưng rưng. (Sông Thu, Trần Thái Vân) Nhưng rồi, dòng sông Thu Bồn êm đềm như dải lụa ngà vào mỗi độ đầu đông đã trở thành hiểm họa: Và lũ lụt. Ôi giòng sông nước lũ Xuôi nguồn trôi miên man Những lá vàng tơi tả Những cành nhánh khô cằn Những hoa bèo lá cỏ Xuôi dòng trôi miên man. (Giòng sông nước lũ, Đynh Hoàng Sa) Trời giận ai ! Trời mưa xối xả Gió giận ai! Gió hú liên hồi Nước giận ai! Nước cuồn cuộn chảy Sông giận ai! Sông để vở bờ. (Sau cơn lũ, Nguyễn Kim Sắc) Làm sao quên những tháng Mười mưa lũ Ðêm bão giông nghe gió rít, chim kêu Những cơn lụt nước trắng đồng,trắng ruộng Tuổi thơ tôi xao xác với quê nghèo. (Đất Quảng, Quang Huỳnh) Bạn đi mùa hạ mà mưa trút Bạn đi như con sông mùa lụt Tràn qua bờ tre chảy thỏa lòng Ta ở, ta về như nước rút. (Như sông ngày lụt, Hà Nguyên Dũng) Không chỉ trong tình yêu dành cho dòng sông quê hương, các nhà thơ xứ Quảng còn dùng những hình ảnh quen thuộc như nước cuốn, đời nước sông, bến đò xưa, chân cầu cũ như những mốc thời gian để đánh dấu những cuộc chia tay của bạn bè, những mối tình mong manh sương khói và những cảnh đời dâu biển sau cuộc chiến tang thương: Em giờ con sáo giữa trời Sang sông nên để cuộc đời tôi đau. (Sáo sang sông, Linh Quân) Khi anh đi tháng hai về qua phố Đêm bay trên sông không thấy con đò Qua An Hải những ngày thơ mắt ngó Đời nước sông Hàn thuở ấy chưa lo. (Ta vẫn còn nhau hay đã xa?, Nguyễn Nam An) Thấy lại giòng sông sáng chiều hai buổi Gắn liền đời qua bao nỗi bể dâu Như con nước sáng lên chiều cạn xuống Mang nỗi buồn theo với giọt mưa ngâu. (Ta thấy lại ta, Nguyễn Thanh Huy) Có ai đợi ta trên con đò cuối năm Ôi, chỉ bóng ta chao bóng xuôi dòng Mặt mũi tiêu điêu theo phần đời gió nổi Cái đời buồn như nước chảy trăm năm. (Ngày về, qua đò cuối năm, Nguyễn Đông Giang) Ta về nghe tháng năm dừng lại Trên dòng Thu Bồn cát lở, bồi Ở đó hè xưa ta đã tắm Hình ta, đáy nước vẫn chưa trôi. (Ta về giữa đất trời hiu quạnh, Hồ Tuấn Nhã) Nước là thế, nước "chảy trăm năm", nước "mang nỗi buồn theo", "nước giận ai", nước "mưa xối xả", còn đất thì sao? Vâng, tình yêu đất của những người Việt đầu tiên trên vùng tân lập Quảng Nam thể hiện trong truyền thống vươn lên từ những thách thức của thiên nhiên khắc nghiệt, khao khát được sống tự do, xa lánh chế độ trung ương tập quyền hà khắc và cương quyết dấn thân khai phá vùng đất mới. Tổ tiên Quảng Nam yêu đất Quảng như yêu mối tình đầu và cũng là tình cuối. Giả từ miền Bắc thân yêu, giả từ Thanh Hóa, Nghệ An, tổ tiên Quảng Nam bồng bế con thơ vượt đèo Hải Vân, ra ngoài cửa biển Đà Nẵng, Sơn Chà, Mân Quang, Tân Thái, xuống tận vùng Cửa Đại, Hội An và lên cả các xứ đèo heo hút gió Tiên Phước, Trà Mi. Họ bắt những con cá lớn, trồng những cây quế thơm, dệt những tấm lụa vàng. Và từ những bước chân đầu tiên đặt lên con đường lịch sử đầy gai góc, bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau giữ gìn và xây dựng Quảng Nam. Truyền thống yêu đất yêu người đó đã được vun xới chăm nom bằng máu xương, mồ hôi và nước mắt. Và thơ ca, đứa con tinh thần của mối tình giữa đất và người xứ Quảng cũng từ đó được sinh ra. Qua bao thời đại, thơ ca lớn lên, có khác nhau ít nhiều về vóc dáng nhưng các cấu tử trong mỗi tế bào căn bản vẫn giống nhau. Dù làm thơ cho những mối tình trai gái hay làm thơ ca ngợi tình cha mẹ, ngôn ngữ trong thơ của họ vẫn đậm đà hương đất Quảng Nam. Cũng vì thế mà một nhà thơ đã viết "tiếng quê hương là tiếng nói của cuộc đời": Trống sớm làng Trung, chuông chiều xóm Thượng Tiếng quê hương vang vọng tháng năm dài Giọng hát: à ơi...chảy tràn tám hướng Tiếng nói cuộc đời khoan nhặt êm tai. (Hương đồng phấn nội, Thành Tôn) Theo suốt chiều dài lịch sử Quảng Nam, từ những ngày xưa xa lắm, thời những người Việt đầu tiên đáp lời kêu gọi của vua Lê Thánh Tôn "mang gươm đi mở cõi" ở các vùng đất vừa chiếm được. Ngoài trừ một số rất ít đi xa hơn vào miền Nam, hầu hết đều dừng lại ở Quảng Nam, chọn nơi này làm quê hương, để được sống và được chết trên vùng đất hiển linh nhưng cũng mang một nỗi buồn cho định mệnh đầy cay nghiệt của mình: Còn ở đó màu da vàng thượng cổ Tổ tiên tôi từ sơ thủy vốn buồn Hai bàn tay đã đào sâu lòng đất Trồng muôn ngàn cây sai trái tình thương. (Còn ở đó, Nguyễn Nho Sa Mạc) Làm bà mẹ Việt Nam đã là khổ rồi mà mẹ Quảng Nam thì sẽ khổ hơn chút nữa. Nhiều người cha Quảng Nam phải bỏ làng xóm vào nam tìm kế sinh nhai, mỗi năm về thăm vợ con chỉ một hai lần. Mẹ Quảng Nam ngoài chịu đựng cô đơn, trống vắng, dải nắng dầm mưa, còn phải trồng trọt trên mảnh đất cằn khô xứ Quảng, còn phải mỗi đêm "ngồi nghe máu nhỏ xuống bàn tay khô". Nhưng dù bàn tay có đau nhức bao nhiêu mẹ vẫn bám lấy đất Quảng Nam, để sống và cũng để đợi chờ: Hôm nay tiếng súng không còn nữa Sông núi ngùi thương chuyện núi sông Con biết quê nhà sau khói lửa Mẹ già tựa cửa đứng chờ mong. Lụa có vàng như thuở thái bình Vườn ta còn mấy ngọn cau xanh Đất khô tay có đau không mẹ Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành. (Thư gởi mẹ, Tạ Ký) Hai nhà thơ xứ Quảng không hẹn hò nhau, qua đời cách nhau gần 20 năm mà có hai câu thơ rất đúng ý nhau như hai đứa con cùng an ủi một người mẹ khổ đau, "hai bàn tay đã đào sâu trong đất" và "đất khô tay có đau không mẹ". Các điểm đặc thù của xứ Quảng, nổi bật nhất vẫn là viết về những địa danh, thể hiện rất rõ nét trong thơ của những nhà thơ sinh ra trên mảnh đất khô cằn sỏi đá này. Họ đưa vào thơ không phải chỉ là những hình ảnh bến bờ thơ mộng, núi non hùng vĩ nhưng đôi khi chỉ là những củ sắn, củ khoai, trái bòn bon, khung cửi, con thoi, con kén. Họ đưa vào thơ không chỉ những nơi chốn rất thơ, rất tình, đọc lên rất êm tai như Trà Mi, Nghi Hạ, Giao Thủy, Thi Lai, Hà Mật mà còn cả những Hòn Kẽm Đá Dừng, Chèo Bẻo, Dùi Chiêng, Châu Nhí, Cà Tang, Đông Bàn, Cẩm Lậu "nghe rất lạ nhưng vô cùng thân thiết". Ngôn ngữ họ dùng đơn giản và dể hiểu như tấm lòng của họ, nói như nhà thơ Hoàng Phong Linh "Người Quảng không đeo mặt nạ". Nếu thiếu những cái bình thường và đơn giản đó họ không còn nhà thơ xứ Quảng nữa: Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc Tình cheo leo cao vút một con đèo Núi Chèo Bẻo vươn mình trong khói đục Hòn Cà Tang thương nhớ vọng tình theo. (Trung Phước ơi, Tạ Ký) Tôi đứng trên cầu ráng đỏ chân mây Bên kia sông vùng tuổi thơ mất dấu Tìm hòai đâu ra Đông Bàn Cẩm Lậu Thi Nhơn, Phú Lộc cũng đã thay tên Tôi đứng nơi đây hồn xuống chiều lên Khóc cuộc đời mình như thuyền đã đắm Chưa về làng xưa vinh quy áo gấm Nay khoe làm gì chiếc áo tù nhân. (Câu Lâu ngày về, Hoàng Định Nam) Chè bắp Cẩm Nam - ngọt môi con gái hương cao lầu ấm dạ khách viễn phương Hội An ơi từng tên quán bên đường từng con hẽm trong lòng ta sống lại. (Hội An, nỗi nhớ trong ta, Dư Mỹ) Phố Hội ơi chiều nay xa vời vợi Cho tôi xin một chút nắng quê nhà Để đời tôi được một phút thăng hoa Được sống thở như ngày tôi mới lớn. (Nhớ Phố Hội, Lê Văn Bá) Thơ ca gắn liền vào đời sống tinh thần của người dân Quảng từ bao giờ, ngay cả theo giáo sư Nguyễn Văn Xuân cũng không biết chính xác. Chắc hẳn là lâu lắm. Hình ảnh quê hương thân yêu ảnh hưởng sâu đậm trong hồn thơ của hầu hết nhà thơ xứ Quảng. Dòng sông Thu Bồn, có lẽ không khác sông Vàm Cỏ trong Nam, sông Hồng ở Bắc bao nhiêu, nước vẫn là nước, bờ vẫn là bờ, ghe thuyền vẫn ghe thuyền xuôi ngược, thế nhưng, qua thơ của các nhà thơ xứ Quảng, những rặng tre, dòng nước, chiếc ghe đã trở thành thánh tích. Bàng bạc trong thơ họ là hình ảnh của đình làng, thôn xóm, bóng đa già đã một thời che nắng che mưa. Nhà thơ xứ Quảng nào cũng ít nhất đôi ba lần viết về những địa danh mà họ đã từng ghi dấu chân trong đời bằng ngôn ngữ vô cùng thân mật như tâm sự với chính mình trong đêm không ngủ được. Hãy nghe các nhà thơ về thăm Hội An. Trước cuộc chiến: Đêm. trở lại, mưa sa mù Phố cũ đường hoang vu thao thức ánh đèn vàng dáng âm thầm muôn thuở của Hội An bước khe khẽ sợ phố phường thức giấc gió tha thướt vỗ trăm lời thân mật mừng ta về thăm lại ấu thơ xưa lặng nhìn nhau, Phố đã nhận ra chưa? ta vĩnh viễn một thằng con bất hiếu thân phiêu bạt, giờ đây lòng trải chiếu bước bâng khuâng xin thâm tạ ơn đời ba mươi năm hồn thả sợi tình lơi bao giờ buộc đời ta vào với Phố? (Luân Hoán, Đêm Mưa Về Hội An) Và như người học trò tóc bạc trở về trường sau cuộc chiến: Đứa trẻ bạc đầu hí hoáy làm thơ đọc cho ghế bàn thưởng thức trong thinh lặng dường như cuối lớp mắt ai thăm thẳm đang nhìn Con sông Hoài sóng vỗ đến lặng im ông nghe tỏ bằng đôi tai nghễnh ngãng nghe cả tiếng thầy cô trên bục giảng tiếng rêu phong mái ngói chùa Cầu. (Họp mặt lớp, Nguyễn Hàn Chung) Bối cảnh chính trị đầy bất trắc đã đẫy nhiều người dân Quảng ra khỏi quê hương thân thuộc như một bầy chim tản mát bốn phương trời. Như những con nước dù trôi đi xa nhưng vẫn hằng đêm mơ về chân cầu cũ, thơ của họ, vì thế, không phải chỉ là tiếng lòng riêng của tác giả mà còn là tiếng kêu trầm thống của quê hương khổ đau, nơi mà nhà văn xứ Quảng Lôi Tam gọi là "chiếc nôi":" Rồi vời vợi trong ký ức còn có hình ảnh con đường cũ, mái trường xưa .... Tất cả quyện quấn, đan kết thành chiếc nôi êm ái. Chiếc nôi (mà chúng ta vẫn gọi là quê hương) đó không là bảo vật dành cho một vài cuộc đời. Nó có đó từ nhiều nghìn năm trước và sẽ phải còn đó cho muôn nghìn năm sau" . Cuộc sống nơi quê người dù trong cảnh nệm ấm chăn êm hay còn nhiều khó khăn, trắc trở, những người cầm bút xứ Quảng vẫn không bao giờ quên nghĩ về, nhớ về và viết về tổ ấm quê hương. Trong hành trang thơ ca của các nhà thơ xứ Quảng còn có cả con nước dâng cao, có mùa lũ lớn, có cả nỗi đau không khác gì nỗi đau của những người còn ở lại: Gởi Sau, trận lũ quê nhà Chút mai nắng ấm Chút hòa thuận mưa Chút gió nồm, giữa ban trưa Chút hương khói buổi giao thừa đầu năm. (Gửi, Sau, Trận lũ quê nhà, Xuyên Trà) Tin bão tới làm họ xốn xang lo lắng tưởng như nước đang dâng đâu đó bên kia đường. Giọt nước mắt nhỏ xuống trong cơn mưa ở Cửa Đại, ở Trà Mi, Tam Kỳ cũng nhỏ xuống ở Boston, San Jose, Dallas. Giọt nước mắt trong dòng thơ Quảng Nam xa xứ vẫn là nước mắt Việt Nam đang hòa chung vào nỗi khổ đau của hàng triệu đồng bào bất hạnh ở quê hương: Những tiếng kêu như xé nát lòng ta Thốn tận tim gan như lời trách móc Ta nghe như tiếng ai đang khóc Đầu ta đau như ai bửa làm đôi Đôi mắt mờ đau xót nghẹn lời Bà con ta bên kia màn trời chiếu đất. (Quê nhà lũ lụt, Phan Xuân Sinh) Những con nước nhỏ dưới chân cầu Vĩnh Điện, Câu Lâu, Bà Rén, đã theo ngã Hàn giang, Cửa Đại mà trôi ra biển lớn. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước Thu Bồn ngày xưa, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Quảng thân yêu đã nhiều năm đại hạn. Tiếng kêu từ thượng nguồn sông Thu giữa tháng Mười mưa lũ như vẫn còn vang vọng trên mỗi chặng đường của những nhà thơ xứ Quảng ở phương xa như người con trai Quảng Nam Trầm Tử Thiêng một lần đã viết trong nhạc phẩm Từ tiếng hát tiếp nối của anh "lời dân ca lai láng tình quê, đời phiêu du đôi lúc ta lắng nghe, bàn chân đi lòng vẫn mong về": Đời lá rách lá lành thường lặp lại đất Quảng Nam chờ lũ lụt hàng năm bao tấm lòng quay về từ cửa Đại trong trái tim mưa nắng cũng thăng trầm. (Mưa lũ quê nhà, Mạc Phương Đình) Sông nước theo mùa đông lũ lụt quê nghèo xơ xác tiếng đau thương trăm năm cánh én bay đi mất bỏ lại tình em như khói sương (Cơn mưa nhớ nhà, Thái Tú Hạp) Về đến quê nhà nhớ cố hương Bờ dâu, ruộng lúa, nắng sau vườn Làng đâu? Dòng nước soi bờ lở Biền biệt quê nhà xa cố hương. (Trước khi đi xa, Thành Tôn) Buổi ta đi khói sóng mờ sông lạnh Nghe âm vang tiếng đất gọi ta về Có bóng ai đứng dưới vòm mưa tạnh Mắt ươm buồn phảng phất cả trời quê. (Buổi ta đi, Vũ Đình Trường) Bên kia bờ Thái Bình Dương Tre xanh lúa ngát quê hương một trời Mưa buồn chi lắm mưa ơi! Trời mưa không giọt mưa rơi trong lòng. (Cung Diễm) Những ngày cuối năm mưa phùn gió bấc dòng sông Hàn nước đục, lục bình trôi bên kia phố có mắt hiền mộng mị nụ cười em tôi lặng lẽ đi tìm. (Mưa ở Đà Nẵng, Đặng Hiền) Như nhà thơ Phùng Quán viết:" Có những phút ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy", tổ tiên xứ Quảng hẳn đã nhiều lần vịn thơ đứng dậy. Thơ là những cành hoa mọc lên từ nỗi khổ đau và thơ cũng là dòng nước mát nhỏ xuống cánh đồng Quảng Nam nức nẻ. Từ những câu ca dao, những điệu hò khoan tình tứ xa xưa cho đến những cách làm thơ rất mới hôm nay, lũ lụt vẫn sẽ còn đó trong thơ của những nhà thơ Quảng Nam như số phận của những con người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất hiển linh những cũng đầy khắc nghiệt này. RE: Góc Miền Trung - lanhdien - 03-01-2012 Thư tình Xứ Quảng Bữa tau nói với mi Tau thích mi rồi đó Mi cúi đầu lí nhí: -Tau xấu òm ưng chi -Răng mi nói lạ rứa Xấu là xấu răng hè Hay mi chê tau nhỏ Mi chẳng thèm si mê? Mi ngày xưa kinh lắm Có tiếng là dịu dàng Tau ngày xưa dốt lắm Chỉ thích mình mi thôi! Mi thích làm cô giáo Tau học trò của mi Lá cây làm tập vở Viết chữ mờ li ti Mi chê tau viết xấu Chữ như con mèo cào Tau cố tình nắn nót Cũng đậm đà chữ Yêu Rồi mi lên trường huyện Tau cũng vội lên đường Chia tay gần như khóc Tau nhớ hoài mà thương Những ngày nơi đất khách Tau nhớ hoài mi thôi Học trò ngày xưa ấy Mới bắt đầu biên thư Mi hồi âm khúc khích Nói tau thiệt là hư Lớn rồi như con nít Bắt người ta thương hoài. -Tau chỉ là nói rứa Chớ bắt hồi mô mi? Bởi tại thương rứa đó Có chi đâu lạ hè? Mười năm tau về lại Mi đẹp hơn thiệt mà! Thấy lòng tau chi lạ Thương mi thành lơ ngơ… Mi cũng thành cô giáo Dạy ở trường năm xưa Bao học trò thứ thiệt Còn tau chỉ giả đò Mi đừng giận tau hỉ Tại ngày xưa tau liều Yêu mi nên đành chịu Làm học trò như ri * Hình như lão Điên cũng có bài như ri RE: Góc Miền Trung - Hồ Yên Dung - 25-11-2012 (03-01-2012, 10:35 PM)lanhdien Đã viết: Thư tình Xứ Quảng Reply Thư tình xứ Quảng Bữa mi nói thương tau Làm tau dị òm đó Mặt tau chắc là đỏ Nên mi dòm hung he? Tau thấy mi nhỏ thiệt Tau ăn hiếp mi hoài Bởi ưng làm cô giáo Bắt mi làm học trò Tau không chê mi nhỏ Mà chỉ tội mi khờ Tau chỉ cần hờn xí Xin chi mi cũng cho Rồi mi đi biệt xứ Bỏ tau buồn xo ro Ai đời làm cô giáo Ngẩn ngơ nhớ học trò! Một ngày nhận lá thơ Tau mừng mừng tủi tủi Tưởng mi quên tau rồi Hay đâu mi vẫn nhớ Mi cứ hoài tếu táo Chọc tau cười liên miên Mi cứ nói : Tại thương… Làm tau bâng khuâng lạ… Mười năm mi về lại Không còn nhỏ như xưa Tau ngó mi bỡ ngỡ Mi ngó tau cười cười… _ Cái mặt mi gian quá Mi hết khờ thiệt rồi Răng mờ hay rứa hỉ Mi nói tau nghe coi _ Cũng nhờ cô hết á Nhờ cô thương em thôi Rồi mi cười toe toét Bụng dạ tau rối bời… Mười năm mi về lại Bưng tuổi thơ về theo Mi học chi học miết Thuộc mỗi một chữ YÊU Ta thân làm cô giáo Không ngán bài giảng mô Mà dạy mi rứa đó Biết làm răng chừ hè? |