RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 27-11-2010
Lại xin nói một chút về cái năm tôi 12 tuổi, đoạn cuối của những ngày đẹp nhất của tôi.
Từ Noel đến trước Tết năm đó, một buổi chiều, cũng thứ 7. Khi tôi về đến nhà thì tia mắt tôi đã hướng về căn nhà ấy, nhà chị Vinh. Cửa đóng, tôi thấy lạnh ở ngực. Bước vào nhà, mẹ tôi đang ngồi ở chõng, tôi hỏi ngay, không kịp chào hỏi mẹ như mọi lần:
- Mẹ ơi, sao bên chị Vinh lại đóng cửa thế nhỉ?
Mẹ tôi thừa biết đứa con trai của mình. Mẹ rơm rớm nước mắt:
- Nó đi lấy chồng rồi, con ạ!
Mới nói có thế thôi, tôi òa lên khóc, khóc như một tiếng nổ, một cuộc nổ vỡ nào đó ở vũ trụ này. Mẹ tôi, chắc là muốn an ủi tôi, nói thêm ( không biết là có thật hay không):
- Trước khi cưới, nó cũng có sang để chào mẹ và nói rằng : bác nói với em Việt ( tên khai sinh của tôi) là chị Vinh gởi lời chào. Ngày nào em Việt lấy vợ thì nhớ nói cho chị biết để chị mừng cho em!
Tôi gục hẳn vào lòng mẹ tôi, khóc suốt buổi chiều, cho đến khi không biết là ở đâu xuất hiện bố tôi về. Tôi im lặng, không dám khóc nữa. Mẹ lau mặt cho tôi và bảo tôi xuống bếp lấy cơm ăn…
Hai mươi lăm năm sau, tức là năm 1959 ( câu chuyện vừa kể xảy ra năm 1934) cũng vào đúng cái mùa ấy. Một đêm, tôi ở Lý Quốc Sư - Hà Nội, có lẽ quá nửa khuya rồi, tôi trằn trọc nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh. Lạ lắm, bồn chồn kinh khủng, nhưng sợ động giấc ngủ của vợ con nên đành nằm im trên giường. Xin mở ngoặc một chút : tôi thừơng bị mất những câu thơ, có khi 2 hoặc 4 câu ( khi thì lục bát, song thất lục bát. Tôi vẫn cổ điển như thế, không có cách tân gì cả). Đêm nằm, những câu thơ chợt đến, tôi chủ quan cho rằng mai chép lại cũng được, rồi lại nằm, nhưng chỉ vài ba phút thậm chí một phút sau thôi, muốn nhớ lại cũng không thể nhớ được. Tôi rút kinh nghiệm, bao giờ đi ngủ cũng có tờ giấy và mẩu bút chì bên cạnh, bao giờ cũng nằm nghiêng về bên trái.
Trong cái đêm bồn chồn ấy, tôi chợt nghe tiếng văng vẳng bên tai như có ai nói, giọng phụ nữ, không phải giọng chị Vinh, không phải xa xôi lắm như tự kiếp nào chứ không phải của kiếp này. Vậy mà rất trong, rõ ràng, có lên xuống trầm bổng hẳn hoi, không phải như ta nói chuyện thường, cũng không phải giọng mẹ tôi, không phải bất cứ người nào, thánh thót êm ái lắm, giọng đọc chính tả . Rất đều đặn, nhịp nhàng từ đầu đến cuối. Tôi quơ giấy bút chép lại cái giọng đọc xa xôi kia. Cho đến câu cuối cùng, người tôi nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng, rất thảnh thơi. Sáng hôm sau, thức dậy tôi lại bàn bật đèn ( vì trời đã sáng nhưng trong nhà còn tối) ngồi tách những câu thơ ra, vì ban đêm, viết dưới ngọn đèn ngủ 6 oát mờ mờ, dòng nọ đè lên dòng kia, có khi hai ba dòng đè lên nhau. Mất cả tiếng đồng hồ mới tách chúng ra xong. “Lá Diêu Bông” đã ra đời như thế. Bài thơ ấy, cho đến bây giờ vẫn nguyên vẹn, không sửa chữa chữ nào cả. Sau đó, tôi tập hợp một số bài viết trong thời gian này, cùng với “Lá Diêu Bông” làm thành tập “ Về Kinh Bắc”. Tập thơ ấy gồm những khối bài, nhóm bài, đề tài khác nhau nhưng tựu trung lại vẫn là về Kinh Bắc, là sự nhớ lại thời xa xưa trên mảnh đất quê hương, từ kiếp trước đến kiếp này. Kết thúc tập thơ, tôi viết hai câu như thế này :
Bốn mươi bảy bài thơ tám nhịp
Tuần dâu chưa vợi khối ân tình
Từng bài thơ trong tập có thể tách riêng, nhưng sự thực, chúng đều nằm trong một khối thống nhất, một cõi-duy-nhất, trong đó, tôi cho rằng bài “ Lá Diêu Bông “ là bài thơ định mệnh của đời tôi.
Hoàng Cầm
[/QUOTE]
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
LuctuyệtNgọcLong Đã viết:Trong buổi giao thời, Tản Đà như nhà thơ lỡ vận, ông chu du hết vào Nam rồi ra Bắc, trải bao thăng trầm mà vẫn nghèo túng...
Có lúc, trong nhà không còn một xu, mà mấy tòa báo ông cộng tác lại thúc hối ông gửi thơ cho kịp in.
Từ sáng đến chiều ông nghĩ mãi, nghĩ mãi cũng không có đề tài...Hic, khổ nỗi đang túng tiền, nợ réo thì lấy đâu ra hứng làm thơ...
Thế mới viết rằng:
" Tháng nay chưa đóng tiền nhà
Thơ năm nghĩ mãi chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Chung quy chỉ tốn thuốc lào vì thơ..."
Rõ khổ....
(st)
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
hlinhlan Đã viết:
Hát đám là một loại hát đối đáp giữa trai và gái ở các làng quê vùng Bắc Việt Nam. Hai phe nam, nữ thi hát trêu ghẹo nhau trong dịp đầu xuân. Phe nào, phe nấy còn phải đem theo một người biết sáng tác thơ thật nhanh để làm thầy dùi, gà những câu đối đáp rồi hát lên tranh tài với nhau.
Đêm hát đám ấy phe nữ có cụ Chanh ngoài 70 tuổi, phe nam có cậu Bính mới đúng 13 tuổi. Cuộc đối đáp kéo dài bất phân thắng bại. Sau cùng Nguyễn Bính viết giúp phe Nam mấy câu hỏi dồn dập như sau:
Anh đố em:
Làng ta chưa vợ mấy người ?
Chưa chồng mấy ả? em thời biết không ?
Đố ai đi khắp Tây, Đông
Làm sao kiếm được tấm chồng như chúng anh đây!
Làm bao nhiêu rượu mới say ?
Như trăng mới mọc, như cây mới trồng ?
Làm sao nên vợ, nên chồng ?
Làm sao cho thỏa má hồng, răng đen ?
Làm sao trăng tỏ hơn đèn ?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?
Làm sao cho chín thành mười ?
Làm sao ? Em đáp một lời, anh nghe!
Phe nam hát xong thì phe nữ bối rối, không trả lời được. Các cô má đỏ hồng, đấm vào lưng nhau rồi cười rúc rích. Người cầm chịch (cũng như trọng tài) đã gõ ba hồi trống giục rồi mà phe nữ vẫn chưa trả lời được và đành chịu thua. Bọn trai làng reo hò vang dội và hết lời hoan hô cậu Bính.
* * *
Một hôm có người đọc một vế ra là :
Chuồng gà kê áp chuồng vịt
Nếu để ý, ta thấy từ "kê áp" là có nghĩa là đặt liền ở cạnh nhưng "kê" lại là gà và "áp" lại là vịt theo chữ Hán, nên mới khó. Nguyễn Bính đối lại:
Chú chuột ra bớp chú bò
Nguyễn Bính đã dùng chữ Pháp đối lại chữ Hán vì từ "ra bớp" có nghĩa là ra đánh nhưng ra (rat) là chuột và bớp (boeuf) là bò nên vế đối rất chỉnh.
Lần sau Nguyễn Bính đã đối được vế ra:
Ba ba đã chín
bằng vế đối :
Cát cát đầy xe
Cái lắt léo thấy ở vế ra này là ba ba (chỉ con ba ba) đã chín (đã nấu chín rồi). Ngoài ra ba nhân với ba sẽ thành ra chín.
Còn ở vế đối của Nguyễn Bính, ta thấy cát cát (đồ dùng để trộn lúa) đầy xe (chứa đầy xe chuyên chở). Thế nhưng trong tiếng Pháp thì cát (quartre = bốn) nhân với cát sẽ thành xe (seize = 16) !
Người ta còn truyền rằng vế ra.
Sao hôm, mai mọc sớm
đã được Nguyễn Bính đối lại bằng:
Cửa Bắc, Tây ở đông
Trong vế ra, mọi ngươi đều nhận thấy ngoài cái nghĩa thông thường là: Ngôi sao hôm, đến ngày mai sẽ mọc sớm hơn thường lệ thì đã có ba từ hôm, mai, sớm để chỉ chiều hôm, sáng mai và buổi sớm. Còn vế đối lại là một sự thật: Người Tây (kiều dân Pháp) ở rất đông đúc ở vào phố cửa Bắc. Những từ Bắc, Tây, Đông đều được dùng để chỉ phương hướng.
Nếu những giai thoại trên có thật thì Nguyễn Bính thực là người rất mẫn tiệp.
* * *
Tương truyền Nguyễn Bính rất đa tình. Một hôm, Nguyễn Bính đến thăm người yêu, sau khi trò chuyện trời, mây, giăng, nước vẩn vơ rồi, chàng bất thình lình ôm chặt lấy nàng mà hôn lấy, hôn để.
Vì bị hôn bất ngờ, không kịp phản ứng lại, nàng vội đẩy chàng ra và tỏ vẻ không bằng lòng về những cử chỉ sỗ sàng của nhà thơ. Nguyễn Bính liền viết ngay mấy câu thơ tạ lỗi.
Anh đi chẳng hẹn ngày về
Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn.
Muốn gì, em muốn gì hơn
Hôn hoàng nay lại hoàng hôn mai ngày.
Đọc kỹ lại cả bài thơ, nàng nhận thấy ngay bốn chữ ở đầu bốn câu thơ lục bát là "Anh chỉ muốn hôn" thì bật cười, má đỏ hồng, nũng nịu mắng yêu :
- Phải gió cái anh này
* * *
Một lần, Bùi Giáng vào một tiệm ăn. Ngồi cạnh ông là đôi bạn trẻ, chừng như mới yêu nhau, còn lắm vẻ ngượng ngùng, e lệ nên họ ăn rất ít rồi đứng dậy. Bùi Giáng liền bưng 2 suất ăn gần như còn nguyên vẹn dồn lại và... ăn.
Đôi bạn trẻ liền vội kêu:
- Trời ơi! Sao thày lại làm vậy? Để tụi con mua suất khác mời thày.
Bùi Giáng nghiêm giọng:
- Ta đâu có thiếu tiền. Ta cũng không hề đói. Ta ăn là tiếc mồ hôi nước mắt của cha mẹ các em đó.
Bữa ấy, hẳn là đôi bạn trẻ được một bài học thấm thía về tiết kiệm.
* * *
Hồi nhà thơ Thu Bồn còn sống độc thân ở một căn phòng nhỏ tại TP HCM. Một bữa trời mưa to, Thu Bồn thấy thi sĩ Bùi Giáng đứng gội mưa ngoài đường, người ướt nhèm hết cả. Thu Bồn vội mời ông về nhà, hấp tấp lấy bộ quân phục của mình cho ông thay (vì Thu Bồn mới rời quân ngũ, chưa có đồ xơ-vin).
Bùi Giáng loay hoay mãi chưa thay được vì phòng ở đã chật lại không có buồng tắm, nhà vệ sinh kín đáo. Thấy vậy, Thu Bồn bảo:
- Chỉ có hai người đàn ông với nhau chú ai đâu mà ngại. Bác cứ cởi đại ra đi.
Bùi Giáng ngập ngừng:
- Nhưng mà... chỗ ấy nó không được thơ cho lắm!
Thu Bồn đành khép cửa đi ra ngoài, để Bùi Giáng được tự nhiên với "cái chỗ không được thơ" của ông !:S
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
LuctuyệtNgọcLong Đã viết:
Đưa người ,ta không đưa qua sông.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm ,không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ,ta chỉ đưa người ấy,
Một gia đình ,một dửng dưng…
-Ly khách ! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị ,hai chị,cùng như sen,
Khuyến nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu ,tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ , đôi mắt biếc ,
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi ? Ừ nhỉ ,người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay ,
Chị thà coi như là hạt bụi ,
Em thà coi như hơi rượu say....
Đến đây thậm chí trong sách giáo khoa cũng không viết nốt đoạn kết còn gây nhiều tranh cãi ( đã in trên báo Tiểu thuyết thứ bảy năm 1940):
Mây thu đầu núi, giá lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng lòng câm...
Ít năm trước đây, nhà thơ Lương Trúc (Phạm Trọng Hoà), một người bạn của Thâm Tâm, có tiết lộ rằng "Tống Biệt Hành" là bài thơ Thâm Tâm viết tặng ông khi ông đi hoạt động.
"Tống biệt hành" là bài thơ nổi tiếng nhất của Thâm Tâm, đồng thời cũng là một kiệt tác của phong trào Thơ Mới. Có sách đã liệt nó vào hàng mười bài thơ hay nhất của thế kỷ vừa qua. Trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh & Hoài Chân đã tỏ ra rất thích "Tống biệt hành" và nhận xét như sau về thi phẩm ấy: "Điệu thơ gấp gáp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ", mà mang phong vị "bâng khuâng khó hiểu của thời đại".
"Tống biệt hành", chúng ta có thể nhận thấy một vài điểm lạ.
Thứ nhất, "hành" là một thể thơ cổ, các nhà Thơ Mới rất ít đụng đến, nhưng ba người bạn tâm giao Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm lại hay dùng; riêng Thâm Tâm đã có một chùm ba bài "Can trường hành", "Vọng nhân hành" và "Tống biệt hành".
Thứ nhì, trong khi các thi sĩ Thơ Mới hay làm những bài yêu đương, tình tứ thì ba ông của nhóm "Tam anh" (hay xóm "áo bào gốc liễu", như cách gọi của người đương thời) lại ưa thích loại thơ bi phẫn, rắn rỏi và gân guốc. Từ cuối thập niên 30 thế kỷ trước, Thâm Tâm đã thốt lên "Trời hỡi! Mai này tôi phải đi - Thơ này rồi chẳng đọc ai nghe - Đời nhiều nhưng có dăm người bạn - Thì viễn ly không có đường về".
Hai cụ Hoài Thanh - Hoài Chân đã "định khép cửa lại, dẫu có thiên tài gõ cửa cũng không mở", vậy mà lại phải dậy đón Trần Huyền Trân vì ông, dù thơ "không xuất sắc lắm", nhưng "ít nói yêu đương", mà chủ trương "Cất bút cho dòng chữ kiếm reo" và lúc nào cũng định "Thôi thế anh về - tôi đi đây". Nguyễn Bính thì ngoài những bài yêu đương nam nữ như chúng ta thường đọc, rất hay... dọa "Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây". Ông nào cũng muốn "đi", chẳng hiểu họ định đi đâu?
"Chí khí" như thế, nên sau 1945, bộ ba thi sĩ này đi theo cách mạng là chuyện "tất yếu của lịch sử" (nói theo kiểu "duy vật biện chứng").
Trở về đề tài "Tống biệt hành". Từ xưa, nhiều người muốn rành rọt, đã cố tìm hiểu xem các nhân vật trong bài thơ là những ai. Nhân vật "ta", chắc là tác giả (Thâm Tâm). Người "ly khách" là một ẩn số. Thô thiển một chút, người ta suy rằng anh ta có hai chị, một em gái và một mẹ già. Có người lại cho rằng "mẹ", "chị" và "em" ở đây đều thuộc gia đình người đi tiễn. Và không ít người cứ mò mẫm theo các dữ kiện đó mà tìm!
Cách đây mười mấy năm, làng văn Việt Nam hớn hở vì đã tìm được nhân vật "ly khách": hóa ra, đó là một "anh bộ đội" đi kháng chiến! Báo chí trong nước cho biết: tên ông là Phạm Quang Hòa (bút hiệu Lương Trúc), nguyên giám đốc Sở Thông tin Liên khu X (Việt Bắc). Trước năm 1945, ông Hòa đã có thơ in ở "Tiểu thuyết thứ Bảy" và là bạn thân của Thâm Tâm và Trần Huyền Trân. Dường như bộ ba này đã ra được tờ báo "Bắc Hà" với số vốn ban đầu vỏn vẹn 50 đồng của ông Hòa.
Theo lời kể của ông Hòa, "Tống biệt hành" được Thâm Tâm viết trong bữa rượu chia tay tiễn ông lên đường hoạt động cách mạng. Cũng theo ông, trong dịp đó, Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính cũng làm thơ tặng ông nhưng ông Hòa đã quên bài của Trần Huyền Trân, còn bài của Nguyễn Bính "đã được giới thiệu" (tôi không có trọn vẹn bài này, chỉ biết mấy câu "Tôi và anh: Bính và Hòa - Ở đây xa chị, xa nhà, xa em... - Đây là giọt lệ phân ly - Ngày mai tôi ở, anh đi, bao giờ?")
Nói về các nhân vật "mẹ", "chị" và "em", ông Hòa cho biết: ngoài bà mẹ ra, ông có một chị dâu rất thương ông (!) và một cô bạn gái của chị mà ông cũng quí như bà chị (!). Còn cô "em gái" thì chính là người yêu của ông Hòa, lúc đó mới 16 tuổi; ngày tiễn đưa, cô đã tặng ông Hòa một chiếc mùi-xoa nhỏ, ở góc có thêu chữ YA ("Yêu anh"; con gái ngày xưa mà nghe chừng bạo quá!)
Nói chung, thông tin của ông Hòa bị nhiều người ngờ vực, bán tin bán nghi. Cái chính là ông "để trong lòng" quá lâu, đến cuối thập niên 80 mới "công bố" chi tiết "đi bộ đội" đó; lúc ấy, cả nhóm Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính đã tịch từ lâu rồi nên chẳng còn ai mà kiểm chứng. Trong các tư liệu có trong tay, tôi thấy độc một ông Bùi Viết Tân nào đó xác nhận là vào cuối năm 1949, trong một dịp đồng hành với Thâm Tâm, ông được Thâm Tâm tâm sự là đúng ông viết "Tống biệt hành" để tặng Phạm Quang Hòa thoát ly lên chiến khu làm cách mạng. Nhưng chi tiết này lại mâu thuẫn với những lời kể của Vũ Cao, tác giả "Núi đôi". Vũ Cao có thời sống cùng Thâm Tâm khi Thâm Tâm làm thư ký tòa soạn tờ "Vệ quốc quân". Theo lời kể của ông Cao, Thâm Tâm đã rất cố gắng trút bỏ triệt để "tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn", quyết "lột xác" để theo kháng chiến: ông tỏ ra rất lạnh lùng, lầm lì, lúc nào cũng chăm chú vào công việc. Ngoài ra, Thâm Tâm cấm mọi người không được nhắc lại "Tống biệt hành", vì coi đó là sản phẩm của quá khứ "tiểu tư sản", cần "khai tử". Nếu đúng thế, thì câu chuyện Thâm Tâm tự nhiên lại "tâm sự" cho người lạ nghe về hoàn cảnh ra đời của "Tống biệt hành", dường như không đáng tin lắm.
Vũ Cao có viết một trường hợp rất cảm động, xin trích:
"Có một lần duy nhất tôi chứng kiến phút yếu đuối của Thâm Tâm: đó là một đêm giao thừa giữa rừng. Ở lại cơ quan báo, chỉ còn tôi và Thâm Tâm. Cái phút linh thiêng ấy, chung quanh tối đen như mực, hai chúng tôi như ở một thế giới riêng, sẵn lòng bộc lộ những nghĩ suy sâu kín nhất với nhau. Bên đống lửa sưởi bên ngoài và ly rượu sưởi trong lòng, vẫn không bớt lạnh, tôi bộc lộ tình cảm của mình với Thâm Tâm: "Anh ạ! Nói gì thì nói, tôi vẫn rất yêu bài thơ "Tống biệt hành" của anh. Trong giờ phút chỉ có hai anh em mình, anh cho phép tôi đọc lại bài thơ ấy". Thâm Tâm khẽ cúi xuống, không nói gì. Tôi hiểu là anh đồng ý, nên cứ đọc. Dưới ánh lửa lúc mờ lúc tỏ, tôi thấy rõ nước mắt anh dàn dụa theo những câu thơ tôi đọc. Nghe xong, anh rút khăn lau hết nước mắt, rồi nghiệm giọng bảo tôi: "Từ giờ trở đi, tôi cấm cậu đọc bài thơ đó!"
Trở lại chuyện ông Hòa có phải là người "ly khách" trong "Tống biệt hành" hay không, bản thân người viết bài này cũng nghi ngờ vì sau bận nhận mình là "ly khách", ông Hòa còn hăng hái lao vào vụ "T.T.Kh., nàng là ai?" (2) rất rẻ tiền và đượm mùi vị "sến", từng làm xôn xao văn đàn Việt Nam cách đây vài năm. Tuy nhiên, để công bằng, cũng phải nhắc đến một "thành tích" của ông Hòa: ông đã nhắc đến khổ thơ cuối của "Tống biệt hành", vốn xuất hiện trong bản gốc của bài thơ trên tờ "Tiểu thuyết thứ Bảy" năm 1940. "Thi nhân Việt Nam" đã bỏ đoạn này (cũng đúng, vì theo tôi, có nó, đâm thừa, và dường như chính tác giả Thâm Tâm cũng chấp nhận sự "biên tập" này) và trong các lần in về sau, người ta cũng quên nó luôn. Đây là một vấn đề văn học sử, cần được tôn trọng.
Tôi đang nghi ngờ về câu chuyện của ông Hòa, thì lại đọc được một "tư liệu" khác, thực ra cũng đáng nghi vấn không kém. Ấy là "hồi ức" của ông Ngọc Giao về Thâm Tâm.
Ông Ngọc Giao cũng thuộc lớp nhà văn, nhà báo "tiền chiến", trong hơn chục năm gần đây tương đối khét tiếng vì những "hồi tưởng" của ông về nhiều văn nghệ sĩ tiền chiến. Dường như ông quen tất cả bọn họ nên ông viết vanh vách như thật. Ông Giao từng bị nhiều người phản ứng khi ông kể câu chuyện nhà văn Nam Cao ăn cắp gà của hàng xóm để đãi nhóm bạn bè thân, trong đó có ông và bộ ba "Tam anh" (dịp ấy, bà Nam Cao cũng lên tiếng phản đối). Lần này, ông Giao cho biết bài thơ "Tống biệt hành" là "tâm sự" của Thâm Tâm trong bữa rượu ở nhà Lê Văn Trương nhằm chia tay một anh Viễn nào đó, khi anh này đi xa.
Xin đừng ai cười nhé, theo lời của ông Giao, anh Viễn vốn là "một tay đồ tể khét tiếng ở lò sát sinh Lò Đúc". Tuy nhiên, bù lại, được cái anh này "rất yêu mến, hiểu biết về văn học, hào hiệp như một hảo hán thời Đông Chu liệt quốc". Và "Thâm Tâm ứng khẩu đọc bài thơ ấy trên chum rượu bên hồ".
Quý bạn chịu chưa? Toàn những là "ông", là "cụ" cả, cụ nào cũng "lão thành", cũng "lâu năm". Biết tin cụ nào đây?
Nghĩa là nghi vấn văn học "ai là ly khách" dường như chưa có câu trả lời có thê đáng tin và dứt khoát! He he he...
(st)
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
hlinhlan Đã viết:
Thuở Trần Đăng Khoa chưa lấy vợ, một lần đúng ngày sinh nhật người yêu, ông tha thiết mời nàng đi hiệu. Ý ông định chọn mua một thứ quà gì đó "rất con gái" tặng người đẹp. Từ chối, nũng nịu, khất lần mãi rồi nàng cũng ưng thuận. Nhưng nàng ra điều kiện: "Em chỉ đồng ý khi em mua tặng anh trước cơ. Em chỉ dám tặng anh món quà nho nhỏ thôi, khoảng 70 nghìn đồng trở lại thôi. Nhá!".
Y hẹn, hai người như đôi chim bồ câu ríu ra ríu rít dắt nhau vào siêu thị. Hàng hóa bạt ngàn. Toàn đồ hiệu. Nhìn hoa mắt. Như đã giao kèo, nàng dắt nhà thơ đến hàng quần áo trước. Nàng gặp cô bán hàng thì thào to nhỏ gì đó.
Để chiều lòng người đẹp, Trần Đăng Khoa ướm thử hết bộ comple này đến bộ comple khác, cuối cùng cũng chọn được bộ vừa ý. Và giá rẻ bất ngờ, chỉ có 68 nghìn đồng. Vì theo cô bán hàng thì đây là bộ comple Trung Quốc lỗi mốt đã treo 8 năm rồi không bán được nên đại hạ giá.
Cũng có một chút sĩ diện nổi lên, nhà thơ thần đồng nghĩ mà không nói ra: Chán quá! Comple lỗi mốt mà ta không biết, nàng cũng không biết. Chót mua rồi, chả nhẽ trả. Thôi thì cứ lấy, không mặc được ta đem về tặng ông cụ. Mà ông cụ ta tuổi hơn 80 rồi mặc thế nào chả được.
Thế rồi áo đóng lại vào hộp để chuyển ra chỗ quầy trả tiền. Nhà thơ cười, mắt tít lại sung sướng, không hề biết cô bán hàng đang giơ tay che miệng cố nén cười vì nó là hàng hiệu chính hãng, giá thực là 1,2 triệu đồng.
Đến lượt nhà thơ chiều lòng người đẹp. Nhà thơ chỉ vào cái xắc da dây đeo dài của Đức rất mốt, giá 1 triệu đồng. Nàng lắc đầu. Nhà thơ chỉ vào lọ nước hoa Pháp hình thiếu nữ giá 4,8 triệu, nàng cũng lắc đầu. Nhà thơ chỉ vào bộ áo dài tơ tằm Vạn Phúc giá chỉ 120 ngàn đồng thì bất ngờ nàng nở nụ cười mãn nguyện. Tất nhiên cũng ướm thử. Rất vừa vặn. Xinh xắn. Đúng là "người đẹp vì lụa...".
Trần Đăng Khoa rất mừng, rất vui, hai cánh mũi phập phồng. Niềm vui lây sang cả những người xung quanh, ông cảm thấy người yêu mình được nâng cấp lên tới "27 chân kính".
Nhưng có một tình huống rất khó xử là lúc trả tiền thì ông chợt nhớ đã bỏ quên ví ở nhà. Vốn là người thông minh, ứng biến nhanh, ông liền rút điện thoại di động ra giả vờ nghe. Cũng a lố, a lồ, trả lời, nói như thật, rồi quay lại bảo: "Siêu thị còn rất nhiều hàng đẹp, em chọn thêm đi, anh trả tiền luôn thể. Có thằng bạn đang chờ gặp ngoài kia tặng anh tập thơ mới in. Anh sẽ quay lại ngay".
Nói rồi ông vội bước ra khỏi siêu thị, lấy xe máy phóng vọt về nhà lấy tiền. Mở khoá cửa bước vào nhà thì đột ngột có mấy cụ đã nghỉ hưu ở Câu lạc bộ thơ Hương mùa thu xanh của một xã ngoại thành ào đến.
Bản thảo. Thơ in để biếu, để tặng, các bác bày ra cả. Đọc thơ. Các cụ hứng chí đọc cả những bài thơ "một thời giun, dế" như: Mưa, Sao không về vàng ơi, Hạt gạo làng ta... Và cụ nào cũng không quên đọc thơ mình rồi xin nhà thơ thần đồng nhận xét, góp ý.
Gật gù. Vỗ tay. Tán thưởng... Đủ cả. Có nghĩa là nhà thơ vốn rất cả nể bị cuốn vào cái trường thơ vốn linh thiêng, thuần khiết, tinh túy, cần thiết như cần ánh sáng và không khí.
Tối, đèn đường bật sáng, các bác nghỉ hưu làm thơ mới chịu rời khỏi nhà Trần Đăng Khoa. Lúc này, ông chợt nhớ đến cuộc hẹn người yêu đi siêu thị...
(Nguồn: Văn Nghệ Công An)
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
java1985 Đã viết:
Ðoàn Thị Ðiểm, dịch giả khúc Chinh Phụ Ngâm, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, sinh vào đầu thế kỷ thứ 18, đời Hậu Lê.
Hồng Hà nữ sĩ là người làng Hiếu Phạm huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, em gái ông Tiến sĩ Tuyết Am Ðoàn Luân.
Kén chồng mãi tới năm 30 tuổi, bà mới lấy lẽ ông Tiến sĩ Hạo Hiên Nguyễn Kiều đương tại chức Thượng Thư. Ông là người huyện Từ Liêm, nay là phủ Hoài Ðức, Hà Ðông. Ông bà gặp nhau trong văn chương nên kính đãi nhau thật là tương đắc và thường có những cuộc nhàn đàm ngâm vịnh cùng các bậc văn hữu đồng thời.
Tư chất rất thông minh, ngay khi mới sáu, bảy tuổi bà đã làu thông kinh sử. Ðến năm 15 tuổi, tiếng tăm bà bất đầu lừng lẫy trên văn đàn nước nhà. Một áng Chinh Phụ Ngâm diễn nôm cũng đủ nói hết sự nghiệp văn chương của bà lỗi lạc đến bực nào.
Bất luận thơ phú, đối trướng, bà làm rất nhanh và tài tình. Khi mới sáu, bảy tuổi, ông Ðoàn Luân lấy chữ ở Sử ký Hán Cao Tổ ra câu đối:
"Bạch xà đương đạo. Quí bạt kiếm nhi trảm chi" nghĩa là: Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy.
Bà đối ngay:
"Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết" nghĩa là: Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng."Ðều là chữ nguyên văn trong Sử ký mà đối chọi nhau từng chữ."
Lại một hôm, ông Luân xuống ao rửa chân thấy em đương đứng soi gương bèn đọc:
"Ðối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm" nghĩa là: Soi gương vẽ mày; một chấm hóa thành hai chấm. (Tiếng điểm lại là tên bà Ðiểm).
Bà đọc ngay đối lại:
"Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân" nghĩa là: Ðến ao xem trăng, một vầng hiện ra hai vầng (Tiếng luân lại là tên ông Luân).
Có một lần, giữa đường bà gặp ông Nguyễn Công Hãng thi hào nổi tiếng thời bấy giờ. Ông này bèn ra thơ Ðộc Hành nghĩa là đi một mình. Bà ứng khẩu đọc ngay:
"Ðàm luận cổ kim tâm phúc hữu.
"Trung tùy tả hữu cổ quăng thần."
Nghĩa là: Bàn luận chuyện xưa và nay có bạn lòng. Theo hầu bên cạnh có bầy tôi.
Ðến đời vua Lê Tuần Tôn, sứ Trung Hoa sang nước ta. Bà Ðoàn Thị Ðiểm bèn dựng quán bán rượu bên đường. Các cột quán dán chi chít câu đối, trong quán bày la liệt sách vở. Sứ giả thấy lạ vào quán. Sau có ý trêu cô bán hàng bèn đọc câu:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỳ nhân canh": Nước Nam bé một tấc đất chẳng biết có mấy người cày".
Bà đối liền:
"Bắc Quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất": Các vị đại phu nước Bắc ( Trung Hoa) đều do đấy mà ra cả".
Sứ giả thẹn và phục tài cô hàng nước lịch sử của Việt Nam lắm, cũng nhân đó Triều đình và các văn hào thời bấy giờ được các sứ giả Trung Hoa kính nể.
Bà mất năm 1746 tại Nghệ An trên đường theo chồng đi nhậm chức, hưởng thọ có 45 tuổi.
Cuộc đời dù ngắn ngủi bà cũng để lại cho kho tàng văn học nước nhà những thi phẩm được truyền tụng:
Chinh Phụ Ngâm Khúc, Tục Truyền Kỳ, và nhiều văn thơ khác.
RE: Giai thoại Làng Thơ - Vũ Thiên Di - 28-11-2010
hlinhlan Đã viết:
Quý Hoa
Tháng 10 - 1970 nghệ sĩ Lệ Ngải mới mười tám tuổi thuộc Đoàn quan họ Bắc Ninh theo đội Văn công xung kích đi phục vụ chiến trường Đường 559. Chiến trường nơi đây rất ác liệt, giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, nhưng tinh thần thì thật lạc quan. Anh chị em văn công phục vụ chiến sĩ tận tụy, hết mình. Khi thì biểu diễn cho một trăm đến hai trăm người xem ở Hội trường nằm sâu trong lòng đất, cũng có khi chỉ phục vụ có năm, bảy người, thậm chí chỉ có một, hai người nhưng lúc nào anh chị em cũng vui vẻ hết lòng phục vụ. Vì hôm nay chiến sĩ ta nghe hát, có thể ngày mai bước vào chiến trận có người mãi mãi không trở về.
Mùa xuân Tân Hợi năm 1971 đoàn văn công của Hà Bắc ăn Tết với Bộ Tư lệnh đường dây 559 tại Savanakhet (Lào). Tuy ở chiến trường ác liệt nhưng hậu phương đã tạo mọi điều kiện cho một cái tết tươi vui, đầy đủ hương vị tết, đầm ấm nghĩa tình yêu thương. Các nghệ sĩ thì ca hát, Phạm Tiến Duật thì đọc thơ - các bài thơ do anh sáng tác ở chiến trường. Đến bây giờ Lệ Ngải vẫn chưa quên những ngày tháng thật ý nghĩa của tuổi thanh xuân nơi chiến trường. Một hôm, đoàn văn công xung kích đi biểu diễn ở một địa điểm xa, Lệ Ngải bị nhức đầu, xổ xuýt nên ở lại lán. Khoảng hai giờ chiều thì Phạm Tiến Duật đến lán văn công chơi. Món quà anh mang theo là một nắm lá méo có vị chua. Anh bảo: “Đây là quà Trường Sơn, vị nữ nào vào đây cũng thích thứ lá này. Anh đem tặng em đây”. Phạm Tiến Duật mời Lệ Ngải đến Ban tuyên huấn cách lán văn công chừng hai cây số, Lệ Ngải từ chối với lý do: “Hôm nay em bị mệt không thể đi được”. Phạm Tiến Duật bảo: “Mệt cứ đi sẽ khỏe”. Nể lời, Lệ Ngải theo anh. Đến nơi đơn vị đã chờ Lệ Ngải từ bao giờ. Phạm Tiến Duật giới thiệu: “Đây là Ban Tuyên huấn của anh, các anh chỉ thích nghe hát quan họ. Có người xa quê đã mười năm, người ít nhất cũng năm năm đấy. Các anh sẽ rất thích được nghe người Bắc Ninh hát quan họ trực tiếp ở đất Trường Sơn này”. Lệ Ngải e ngại: “Em sợ bị ngạt mũi hát chẳng ra gì”. Phạm Tiến Duật đùa: “Các anh chỉ thích nghe giọng hát ngạt mũi của em”. Trước sự nồng nhiệt, chân tình của các anh, chị hát ba bài quan họ lời cổ: “Gọi đò”, “Tuấn Khanh”, “Người ơi người ở đừng về”. Các chiến sĩ nghe rất xúc động. Tình cảm giữa nghệ sĩ Lệ Ngải với các chiến sĩ thân mật, chan hòa. mấy lần Lệ Ngải xin phép về lán vì chị e khi đoàn đi biểu diễn về không thấy chị, chắc chắn họ sẽ phải bổ đi tìm thêm vất vả. Nhưng anh em cứ nài nỉ chị ở thêm chút nữa. Thế là mãi tới hơn bốn giờ chiều họ mới bịn rịn chia tay nhau. Lúc chia tay Phạm Tiến Duật xúc động nói với chị: “Đêm nay chúc em ngủ ngon nhé và cũng đêm nay anh sẽ có bài thơ tặng em”. Toàn bài thơ đó như sau:
Người ơi người ở
Bao nhiêu người đã hát
Bây giờ lại đến em
Bao nhiêu người hồi hộp
Bây giờ lại đến anh
Ở hai thung lũng xanh
Kề nhau thành hàng xóm
Công việc như nước cuốn
Chẳng bao giờ thăm nhau
Nắng đã tắt từ lâu
Tiếng ve như kéo mật
Dáng em ngồi trước mặt
Như cây nhỏ trong vườn
Chẳng thể gặp nhau luôn
Hãy ngồi thêm lát nữa
Hai người hai cánh cửa
Khép mở hai vùng trời
Gặp biết bao nhiêu người
Quen nhau bao gương mặt
Con đường thì tít tắp
Mặt trận thì mênh mông
Chẳng nhớ nữa mùa đông
Đi qua bao hang đá
Cũng quên rồi mùa hạ
Ở bao nhiêu ngăn hầm
Công việc cùng tháng năm
Hát vui cùng chiến sĩ
Những ngày đi đánh Mỹ
Bao nhiêu người quen nhau
Anh chẳng nói sai đâu
Em là cây ngải đắng
Mọc trong triền núi vắng
Góp vị thuốc cho đời
Tiếng em hát “Người ơi...”
Người gần nhau mãi mãi
Tiếng em hát “Đò ơi...”
Sông đưa đò gần lại
Tiếng em hát “Cây ơi...”
Cây nhú thêm mầm mới
Tiếng nồng say em gọi
Náo nức tuổi trăng lên
Cái giọng thì của em
Mà lời anh đấy nhỉ?
Giữ em chẳng được nào
Hẹn nhau ngày thắng Mỹ
Lại hát tặng tiễn nhau
Như bạn bè quan họ
Rằng: Người đi người nhớ
Rằng: “Người ơi người ở đừng về...”.
Sau đó bài thơ “Người ơi người ở”, có người còn gọi là “Cây ngải đắng” đã xuất hiện trên báo Quân đội nhân dân. Ở quê hương Lệ Ngải thời đó nhiều người đã đọc bài thơ trên báo và họ rất vui mừng biết rằng đoàn văn công đi phục vụ chiến trường đã gặp nhà thơ quân đội Phạm Tiến Duật ở Trường Sơn.
Đến nay nghệ sĩ Lệ Ngải đã vào độ tuổi ngoại ngũ tuần nhưng chị vẫn tươi duyên - cái duyên của chị hai quan họ, giọng ca vẫn đằm thắm ngọt ngào. Trong các cuộc vui thơ chị thường ngâm bài thơ trên của nhà thơ Phạm Tiến Duật đã làm tặng chị. Chị vốn có chất giọng truyền cảm, cộng với tình cảm đẹp với nhà thơ, với kỷ niệm của một thời tuổi trẻ đẹp nhất nên bài thơ chị ngâm có sức rung động trái tim của bao người.
Bài thơ “Người ơi người ở” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay của anh, có sức lay động trái tim người đọc, người nghe. Nó được tạo nên bởi chất liệu có thực đầy xúc cảm nơi chiến trường. Bài thơ dài tới 48 câu nhưng vẫn cuốn hút người đọc, không hề nhàm chán. Chắc chắn bài thơ ấy sẽ có sức sống trường tồn cùng năm tháng của một thời chống Mỹ hào hùng và cũng đầy chất thơ, cho dù anh đã mãi mãi ra đi.
(Theo bài viết của Quý Hoa, hội Văn Học Nghệ Thuật Bắc Ninh, đăng trên vannghequandoi.com.vn)
* * *
"Người ơi người ở đừng về" là một bài Quan họ rất hay và được nhiều người biết. Tôi không có bản do cô Lệ Ngải thể hiện. Các bạn muốn nghe "Người ơi người ở đừng về" qua giọng hát của NSND Thu Hiền thì vào địa chỉ dưới đây :
http://hlinhlan.googlepages.com/nguoiodungve.htm
BÍ MẬT CUỐI CÙNG VỀ T.T.KH - hvn - 25-02-2011
Những ngày này, câu chuyện tình nổi tiếng trong lịch sử văn học “Hai sắc hoa ti gon” chuẩn bị được dựng thành phim thì nghi án “Ai là T.T.KH” lại sống dậy. Nhà báo Trần Đình Thu là tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Giải mã nghi án văn học T.T.KH” đã dành riêng cho Báo ĐS&PL một bài viết, kể về những điều chưa có trong sách cũng như trong các bài phỏng vấn của anh trước đây.
* Tôi không phải là T.T.Kh
Cuối năm 2004, tôi viết xong bản thảo cuốn sách “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh”. Tôi vui mừng gửi ngay bản thảo cho anh Đào Hiếu, biên tập viên Nhà xuất bản Trẻ để anh ấy chuẩn bị in thành sách. Lúc đó tôi là cộng tác viên khá thân thiết của nhà xuất bản này, đã in mấy đầu sách theo diện kế hoạch A ở đây rồi. Anh Đào Hiếu đọc xong bản thảo cuốn sách, mời tôi đến nhà xuất bản, nói: “Cuốn sách này không in được ông à”. Tôi hỏi anh lý do vì sao, anh trả lời: “Khi đọc phần đầu, là phần giải mã của ông, tôi tin chắc một trăm phần trăm bà Trần Thị Vân Chung đúng là T.T.Kh. Nhưng khi đọc qua phần phụ lục, tới bức thư của bà Trần Thị Vân Chung gửi báo giới thì tôi tin chắc một trăm phần trăm bà Trần Thị Vân Chung không phải là T.T.Kh. Do đó tôi quyết định đề nghị ban giám đốc không in cuốn sách này của ông”.
Chờ anh Hiếu nói xong, tôi phân tích: “Tôi làm nghiên cứu nên rất tôn trọng sự thật khách quan. Vì thế mà tôi đưa bức thư vào. Nếu tôi có ý này khác, trong bản thảo của tôi, tôi lờ đi bức thư của bà Trần Thị Vân Chung, không đưa nó vào phần phụ lục, thì chắc chắn bây giờ anh đã “tin chắc một trăm phần trăm” bà Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh và cho in ngay cuốn sách này mà không có ý kiến thắc mắc gì. Tôi xin anh, anh hãy in cuốn sách đi, tôi tin cuốn sách của tôi có khả năng làm sáng tỏ một nghi án văn chương vốn quá tù mù lâu nay”.
Vậy bức thư của bà Trần Thị Vân Chung thế nào mà làm đổ toàn bộ phần giải mã của tôi phía trước? Tôi xin ngừng lại một chút để nhắc lại sự ra đời của bức thư này. Quãng giữa năm 1994, ông Thế Phong cho xuất bản một cuốn sách có tựa là “T.T.Kh nàng là ai?”. Cuốn sách đã làm nổ tung dư luận khi đưa ra một “ứng viên sáng giá” vào vị trí T.T.Kh: bà Trần Thị Vân Chung. Trước khi cuốn sách này ra đời, những người được xếp vào diện nghi vấn T.T.Kh toàn là đàn ông như Nguyễn Bính, Thâm Tâm...
Vài tuần sau khi cuốn sách phát hành, đặc san Văn Hóa của Bộ Văn Hóa cùng với báo Thanh Niên đồng loạt đăng tải bài phân tích cuốn sách. Báo Thanh Niên thì chủ yếu đăng bài phê phán còn đặc san Văn Hóa thì ủng hộ. Dư luận xôn xao quá khiến con cháu bà Vân Chung ở Sài Gòn gọi điện sang Pháp thông tin cho bà. Một thời gian sau, từ Pháp, bà Trần Thị Vân Chung có thư ngỏ gửi cho báo giới trong nước. Đó chính là bức thư tôi nhắc ở trên. Bức thư từ đầu đã phang ngay một câu làm nản lòng tất cả những ai muốn tin bà Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh. Bức thư viết: Điều trước nhất tôi xin thưa: “Tôi không phải là T.T.Kh!”.
Chính cái câu này mà trong vòng 10 năm sau đó, từ 1994 đến 2004, giới yêu thơ không ai còn hứng thú nhắc đến cái tên bà Trần Thị Vân Chung khi đề cập về nghi án T.T.Kh. Cũng chính cái câu này mà anh Đào Hiếu từ chối in cuốn sách của tôi. Thì bởi vì, chính bà ấy đã tuyên bố thế cơ mà!
Thế mà lạ lùng thay, khi lật lại tư liệu, “giám định” các bài thơ rồi lấy kết quả so sánh với các “nghi can”, tôi thấy rằng không ai phù hợp với T.T.Kh hơn bà Trần Thị Vân Chung. Điều này khiến chính tôi cũng thắc mắc: Vậy thì, hà cớ gì mười năm trước, bà Trần Thị Vân Chung nhảy bổ ra la làng “Tôi không phải là T.T.Kh”?
*Chung quanh bức thư
Có rất nhiều độc giả chất vấn tôi, nếu ông cho rằng bà Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh, tại sao khi ông Thế Phong in cuốn sách, bà ấy đã không nhận mình thì thôi, ngược lại còn phản đối? Trong cuốn sách của tôi, ở phần giải mã, tôi đưa ra các tiêu chí về người có thể là T.T.Kh thế này: Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu, cụ thể hơn người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Nay tôi nghĩ, sau này nếu tái bản có sửa chữa, chắc tôi phải đưa thêm một tiêu chí nữa: T.T.Kh phải là người có thể nhảy bổ ra la làng mình không phải là T.T.Kh nếu có ai đó nói mình chính là T.T.Kh.
Khi cuốn sách “Giải mã…” của tôi in ở Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn sau đó, rút kinh nghiệm từ vụ biên tập viên Nhà xuất bản Trẻ từ chối bản thảo, tôi viết thêm một phần ngắn, phân tích lý do tại sao bà Trần Thị Vân Chung viết thư phản đối, tuyên bố thẳng mình không phải là T.T.Kh. Xin trích một đoạn: “T.T.Kh không bao giờ làm cái việc đứng ra nhận mình đâu. Không nhận mình thì mới đúng là T.T.Kh. Chứ còn bây giờ giả sử có người nào đó đứng ra nhận mình là T.T.Kh thì tôi có thể nói ngay rằng đó chắc chắn không phải là T.T.Kh”.
Khi viết cuốn sách, tôi có đến gặp bà Thư Linh để tìm kiếm tư liệu. Bà Thư Linh là bạn của bà Trần Thị Vân Chung. Cuốn sách của ông Thế Phong cốt lõi là dựa vào lời kể của bà Thư Linh. Trong một bữa đám giỗ ở nhà bà Thư Linh, có người kể vừa mới gặp T.T.Kh ngoài Bắc, T.T.Kh giờ già yếu lắm rồi. Bà Thư Linh nghe thế bức xúc quá, cãi lại T.T.Kh làm gì mà ở ngoài Bắc, T.T.Kh đang ở Pháp mà! Xong bà tiết lộ luôn câu chuyện bà Trần Thị Vân Chung từng tâm sự với bà thế nào. Ông Thế Phong thu nhặt tư liệu từ bữa giỗ đó, viết thành cuốn sách “T.T.Kh nàng là ai?”. Cho nên vào năm 1994, song song với việc gửi thư ngỏ cho báo giới, bà Trần Thị Vân Chung còn gửi một thư riêng cho bà Thư Linh (khi có điều kiện tôi sẽ phân tích các thư này trong một bài báo). Bức thư trách móc bà Thư Linh nặng nề. Bà Thư Linh cho biết, kể từ năm 1994, sau bức thư đó của bà Vân Chung gửi từ Pháp về, bà Vân Chung tuyệt giao với bà Thư Linh luôn. Vì thế tôi đặt vấn đề: Không phải là T.T.Kh thì thôi chứ làm gì mà bức xúc đến mức độ phải tuyệt giao với một người bạn cũ của mình. Chỉ cần nói một câu ngắn gọn, quý vị nhầm rồi, tôi không phải là T.T.Kh là đủ.
Trong cuốn sách “Giải mã…”, tôi có phân tích tính cách của T.T.Kh để so sánh với tính cách của bà Trần Thị Vân Chung: “Tôi nhớ lại những câu thơ của T.T.Kh thuở xưa cũng nặng nề u ám như thế. Chẳng hạn như câu thơ “Là giết đời nhau đấy biết không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung...”. Độc giả có thấy rằng, nếu bà Thư Linh chỉ phạm “cái tội” như bà Vân Chung nói là “vu khống” cho bà là T.T.Kh trong khi bà không phải là T.T.Kh thì “cái tội” ấy có gì nghiêm trọng đâu. Người ta nói mình là T.T.Kh chứ có nói gì xúc phạm danh dự nhân phẩm đâu mà phải giận dữ ghê thế! Sự giận dữ trong bức thư này thực tế vượt ra ngoài ranh giới bình thường. Nó cho thấy chỉ có bà Thư Linh phạm vào những “cái tội” như vi phạm lời thề không tiết lộ thân phận của bà Vân Chung chẳng hạn thì mới có sự giận dữ như vậy”.
Năm 1994, cuốn sách của ông Thế Phong tiết lộ rõ, nhà văn Thanh Châu chính là người yêu của bà Trần Thị Vân Chung, tức người yêu của T.T.Kh. Sau năm 1975, ông Thanh Châu vào Sài Gòn lang thang nơi này qua nơi khác để tìm thăm bà Vân Chung. Khi vụ việc gây xôn xao dư luận, trong thư ngỏ của mình, bà Trần Thị Vân Chung phủ nhận luôn mối quan hệ yêu đương với ông Thanh Châu. Điều này khiến tôi bối rối hết sức. Vì kết quả giải mã của tôi cho thấy: T.T.Kh phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả của truyện ngắn Hoa ti gôn in trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy vào năm 1937. Tôi quyết định kiểm chứng bằng cách đến gặp ông Thanh Châu để hỏi thẳng. Tôi dự tính, chỉ cần ông Thanh Châu thừa nhận ông và bà Trần Thị Vân Chung yêu nhau là đủ, không cần ông ấy phải thừa nhận Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh. Tôi rủ nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đi theo để làm chứng cho cuộc “thẩm định lịch sử” này. Tại nhà ông Thanh Châu, tôi đã gí sát máy ghi âm vào ông và hỏi đến ba lần. Ông Thanh Châu cũng xác nhận đến ba lần, bà Vân Chung chính là người yêu của ông. Thế là đủ. Nhưng tôi có máu tham, hỏi thêm một câu, bà Trần Thị Vân Chung có phải là T.T.Kh không thì ông lắc đầu nguầy nguậy. Tôi thì đã lường trước nên coi đây là chuyện bình thường, nhưng nhà văn Nguyễn Khoa Đang lại thất vọng. Về nhà, tôi giải thích với anh: chờ đợi câu trả lời Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh là một tham vọng quá lớn. Không thể có lời xác nhận này. Vì câu thơ thuở xưa đã viết: “Cố quên đi nhé câm mà nín”. Người ta đã thề thốt thế rồi, làm sao tiết lộ?
Ông Thanh Châu nay đã về cõi vĩnh hằng, bà Vân Chung nếu còn sống cũng đã quá lớn tuổi. Không còn ai đứng ra để khẳng định hay phủ định. Nhưng tôi tin rằng, chỉ có người không nhận mình là T.T.Kh mới có thể là T.T.Kh.
Trần Đình Thu
Nguồn : binhchonthohay.com
RE: Giai thoại Làng Thơ - kanguru - 08-12-2013
Giai thoại về Nguyễn Du
Nguyễn Du (1766 - 1820), đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc có thế lực và có truyền thống văn học bậc nhất đương thời. Nguyễn Du thông minh, học rộng, nhưng chỉ đỗ đến tam trường (Tú tài),
ông ra đời bằng chức quan võ nhỏ biên trấn ở Thái Nguyên, kế nghiệp ông bố nuôi họ Hà. Tuy xuất thân trong một gia đình vọng tộc, nhưng ông không được hưởng phúc ấm của tổ tiên.
Những biến cố của đời sống chính trị dồn dập ập đến biến ông thành nhà thơ - người phát ngôn cho quyền sống của những người lao khổ, nhà nhân văn chủ nghĩa lớn nhất của đất nước đầu thế kỷ XIX.
Tạp chí Quê Hương xin giới thiệu một số giai thoại về Nguyễn Du.
Câu thơ bỏ lửng
Nguyễn Du lúc còn là học trò được ông thân sinh gọi ra Thăng Long theo học một ông đồ họ Lê ở Gia Lâm, bên kia sông Nhị Hà (sông Hồng).
Nguyễn Du cùng các bạn học ngày nào cũng phải qua sông bằng đò ngang để đến trường. Người chở đò là một cô gái nhà nghèo, nhưng xinh xắn và nói nhỏ nhẹ, có duyên và rất dễ thương.
Một hôm, các nho sinh đến chậm, phải chờ đò mãi. Trống trường bên kia đã điểm hối thúc. Nguyễn Du chờ sốt ruột nên làm một bài thơ nhờ bạn đưa cô lái đò để tỏ lòng mình và cũng là để thử lòng cô gái. Bài thơ như sau:
Ai ơi, chèo chống tôi sang.
Kẻo trời trưa trật lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại, lại qua
Giúp nhau rồi nữa để mà....
Câu thơ cuối, tác giả bỏ lửng có ý để chờ cô gái điền vào. Nhận được, cô gái bẽn lẽn và từ chối, nhưng về sau nể lời bạn, cô cũng thêm vào hai chữ... quen nhau.
Rồi ngày tháng dần qua, bến đợi sông chờ, một ngọn lửa thầm kín bùng lên giữa hai người, sợi dây tình khăng khít buộc chàng trai quý tộc và cô gái bình dân. Thế rồi hai người yêu nhau. Nhà thơ thổ lộ tâm tình ra bốn câu lục bát rằng:
Xưa quen nay đã nên thương
Cùng nhau chắp mối tơ vương chữ tình
Cảnh xinh xinh, người xinh xinh
Trên trời, dưới nước, giữa mình với ta.
Họ yêu nhau tha thiết, quyết chí lấy nhau, nhưng gia đình Nguyễn Du không đồng ý. Bởi lẽ đơn giản, Nguyễn Du là cậu con trai quý tộc mà cô gái là một người bình dân.
Nguyễn Du bị gửi về học một ông đồ khác ở Thái Bình. Nguyễn Du buồn rầu từ giã người yêu, mối tình đầu trong trắng của mình, dằn lòng chấp nhận gia pháp khắc nghiệt của họ Nguyễn Tiên Điền.
Hơn 10 năm sau, Nguyễn Du có dịp trở lại bến cũ đò xưa thì cô gái đi lấy chồng lâu rồi, dòng nước đỏ vẫn lặng lẽ trôi.
Bến đò vẫn đông người qua lại nhưng vắng bóng một người. Trông cảnh cũ nhớ người xưa, nhà thơ bùi ngùi ngâm lên bốn câu thơ lục bát để gửi gắm lòng mình:
Yêu nhau những muốn gần nhau,
Bể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mười.
Vì đâu xa cách đôi nơi.
Bến nay còn đó nào người năm xưa?
Hát phường vải
Làng Trường Lưu thuộc huyện Nghi Xuân là một trong những làng văn vật nổi tiếng về hát phường vải, về nghề dệt vải và con gái đẹp.
Làng Tiên Điền có nghề làm nón. Trai thanh phường nón thường kéo nhau sang hát với gái lịch phường vải ở Trường Lưu. Họ đi hát vì mê hát, nhưng một phần cũng vì mê các cô gái đẹp.
Trong các chuyến đi ấy, Chiêu Bảy (Nguyễn Du là con thứ bảy nên gọi là Chiêu Bảy) chẳng bao giờ vắng mặt. Con đường sang Trường Lưu đã trở nên quen thuộc.
Đến nay nhân dân Hà Tĩnh còn nhắc những câu Nguyễn Du cùng các cô gái đối đáp.
Cậu Chiêu Bảy đã để thương để nhớ lại rằng:
Phiên nào chợ Vịnh ra trông
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Đến khi Nguyễn Du ra làm quan cho triều đình nhà Nguyễn thì cô Tuyết, một trong những cô gái hát phường vải ấy trách:
Cái tình là cái chi chi
Anh làm tham tri em cũng biết rồi.
Có một đêm hát nọ, Chiêu Bảy gặp một cô gái tên là Cúc, người đẹp, giọng hay, nhưng phải một nỗi quá thì mà vẫn chưa chồng. Chiêu Bảy biết thóp, liền hát chơi:
Trăm hoa đua nở về xuân
Cớ sao Cúc lại muộn mằn về thu?
Chiêu Bảy vờ nói chuyện hoa để châm chọc: các cô gái khác đều đã đi lấy chồng sớm, sao riêng cô Cúc lại để quá lứa lỡ thì như vậy?
Nhưng cô Cúc nào phải tay vừa, thoáng nghe cô đã hiểu ngay ý tứ của đối phương, bèn cất tiếng hát đáp lại:
Vì chưng tham chút nhuỵ vàng
Cho nên Cúc phải dềnh dàng về thu.
Hoa cúc vốn là loài hoa nở về mùa thu, cúc nở về thu mới đang độ tươi đẹp, đúng kỳ chớ không phải muộn. Câu hỏi khôn và câu trả lời cũng thật khéo.
Lê Xuân
RE: Giai thoại Làng Thơ - kanguru - 16-12-2013
Những Giai Thoại Về Bùi Giáng Tiên Sinh
Một người cùng quê hỏi ông: "Thầy thường làm thơ như thế nào ?"Ông mỉm cười: "Qua làm thơ cũng giống như em là kỷ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi". Ông nói câu đó rất tự nhiên, rất thành thật, chẳng có vẻ gì tự mãn.
2) Nhà văn Cung Tích Biền, người đồng hương với ông kể rằng: Vào đầu thập niên sáu mươi, có lúc ông đi dạy Việt văn ở một trường Trung học tỉnh ly Một hôm giảng truyện Kiều, đến chỗ nàng Kiều phải hồng trần lưu lạc, thầy Giáng khóc oà! rồi thầy nhảy qua cửa sổ lớp học, băng bộ ra bến xe về Sài Gòn. Học sinh ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi đâu đó sẽ trở lạị Trên bàn sách vở, bao thuốc lá hãy còn. Hỏi lý do, thầy ngậm ngùi nói:"Làm sao mà trở lại nơi em Kiều đã một lần hy sinh cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn!".
3) Một ngày vào năm 1963, thi sĩ Viên Linh chở Bùi Giáng đi thăm người tình. Ông rất trang trọng trong cuộc đi thăm này Trước khi đi, ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu.
Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên Linh hỏi ông:
- Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy ?
- Tau phải làm thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh khiết nhất ... như tâm hồn tau vậy ! (1)
4) Khoảng năm 1967-1968, độc giả cười nghiêng ngửa khi Ao Thả Vịt (nhật báo Sống - Chu Tử) loan tin rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu say đắm kỳ nữ Kim Cương. Ông yêu đến nỗi phải làm thơ gọi Kim Cương là Mẫu thân. Khối tình đơn phương đó vẫn bền bỉ trong Bùi Giáng. Có hôm ông ngất ngưởng ngồi xe xích lô đến tận nhà thăm nàng. Ông sơn móng chân móng tay, đánh phấn thoa son cẩn thận. Gọi cửa nàng không ra, ông lấy đá chọi rầm rầm vào nhà. Nàng phải xuất hiện để ông thấy mặt và nói vài lời rồi đi. Chỉ có thế thôi ! (1)
Sau này trong dịp niệm kinh cho ông, nghệ sĩ Kim Cương - người mà Trung Niên Thi Sĩ chép tặng bài thơ Sầu Ca Sĩ trong tập Ðường Ði Trong Rừng - tâm sự: Tôi may mắn được thi sĩ Bùi Giáng nhắc đến trong thơ và ngoài đường lang thang.
Một khuya đã lâu lắm rồi, chừng hơn 25 năm trước, anh đập cửa nhà tôi và hét: "Mẫu thân, mở cửa!". Tôi hỏi anh Giáng ở đâu về mà bơ phờ vậy? Anh bảo ở nhà thương Biên Hòa, khi không có một Bồ Tát hiện tới bảo anh phải về Sài Gòn gấp để nhờ "mẫu thân" Kim Cương bảo lãnh mới "an toàn hiện sinh sinh hiện". Tôi nói không dám nhận mấy tiếng "mẫu thân". Anh quát: "Ðồ phàm phu tục tử như ái khanh một triệu năm sau chưa hiểu thấu tình yêu của Trẫm!" Tôi chỉ cười và kính anh là tài hoa muôn một (2)
5) Nhà văn Hoàng Nguyên Nhuận kể rằng ngày 30-4-1975 ở Sài Gòn thì ông là người duy nhất mặc đồ trận của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với quần áo trận và nón nhưa (lớp trong của nón sắt)... Anh nhởn nhơ trong nhung phục ấy với một bầy chó năm bảy con cột dính chùm quanh lưng! Trước ngày đổi đời ông nhận được một số tiền nhuận bút. Ông ra phố rủ đám trẻ đánh giày, đám trẻ cầu bơ cầu bất trôi sông lạc chợ cùng ông ăn nhậu; còn bao nhiêu tiền ông mua chó để . . . phóng sanh!?
Nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy cho biết có lần ông để quên đàn chó ở nhà nữ họa sĩ Bé Ký cả tuần lễ làm bà phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt!
6) Nhà văn Cung Tích Biền cũng kể thêm có lần Bùi Giáng và ông đang đi long nhong gần nhà thờ Ba Chuông kiếm vài chung "quốc lũi" thì Bùi Giáng bỗng nói: "Cho ta về nhà chút đã!". Hóa ra ông về để cho heo gà ăn "chớ không sợ tụi nó chết !!!". Về nhà trong hẻm gần cổng xe lửa số 6, đã thấy ngay trước hàng hiên có mấy con . . . heo đất, mấy con vịt nhựa, được đặt trong rọ hoặc úp bằng những cái rỗ đàng hoàng. Bên con heo đất hãy còn mấy cọng rau tươi, nơi gà vịt nhựa có gạo vung vãi! Một người bà con tiết lộ: "Phải chăm sóc cẩn thận, ảnh về thấy heo gà không có thức ăn ảnh khóc!".
7) Ông mê Truyện Kiều, thơ Huy Cận. Có lần ông nói với thi sĩ Trần Tuấn Kiệt là ông viết về triết học, bàn về tư tưởng hiện đại là để cuối cùng nêu lên mấy câu về Kiều hay của Huy Cận chơi! Thế mà không hiểu tại sao ông rất ghét Xuân Diệu! Có lần Xuân Diệu diễn thuyết trong khuôn viên Trường Mỹ Thuật Gia Ðịnh, ông đi tới đi lui ngoài cổng trường và lầm bầm chửi rủa! (3)
8) Một hôm, vào khoảng 1980, ông ngồi uống cà phê, mơ màng nhìn sang bên kia là đường Ðặng Thị Nhu, đột nhiên đôi mắt ông sáng lên . Té ra ông nhìn thấy một cuốn sách tiếng nước ngoài, bị chủ quầy đem lót dưới kệ sách thay cho gạch bởi vì từ lâu không có ai hỏi mua. Ông cuống quít móc những đồng bạc cuối cùng nài nỉ mua - vì không đủ tiền - rồi ông ngồi đọc say mê như người bị thôi miên, hoàn toàn không biết gì về mọi chuyện xung quanh!
9) Một giai thoại chót: Giữa chợ trời đông như hội cuối đường Trương Minh Ký Sài Gòn sau tháng 4/75, đến trước một hàng bán phụ tùng xe đạp cũ, ông nhẩn nha vớ lấy cái "ghi đông" xe rồi tỉnh bơ bỏ đi. Bà chủ quán chạy theo la thất thanh nhờ thiên hạ bắt giùm "thằng ăn cắp". Chẳng đợi ai bắt, ông quay lại trả cái ghi đông vào chỗ cũ và từ tốn phân bua đại để rằng: "Bà con thấy chưa, mất tất cả . . . mà phải câm, mất có cái ghi đông thì la rầm trời! Kỳ khôi quá!". Hành động ấy là điên hay tỉnh đây!!
|