Nhật ký B'Lao - hothiethoa - 24-06-2013
--LanhDien--
Sau loạt bài về Sơn Núi, quá hào hứng với nhân vật huyền thoại này, Thi Thánh đã Đăng Sơn Thụ Đạo, dưới đây là Nhật ký Sơn Trình của Người.
o0o
"Tôi đến xứ sở này để làm gì khi ngoài kia sắp sửa mưa vùng gió vội? Tất cả đều từ một địa danh Phương Bối và từ một con người đến với nhiều lời đồn đại thành một huyền thoại Sơn Núi giữa núi rừng B,lao..."
Tôi ghé thăm B,lao vào một chiều thưa nắng. Và có lẽ đó là giây phút hiếm hoi nhất mà tôi bắt gặp được chút ít phảng phất của nắng chiều của xứ sở cao nguyên này, để rồi từ chiều hôm đó cho đến hôm sắp sửa lên đường trở về tôi mới gặp thêm một vài giây nữa...Thời gian tôi ở B,lao không lâu, chỉ vỏn vẹn hai đêm hai ngày. Nhưng nó có cả một dư vị không thể nào quên nếu không muốn nói rất là đáng nhớ. Nó đầy đủ cảm xúc của một cuộc hội ngộ, một sự bất ngờ, một sự rung động nội tâm vừa đủ để sâu lắng và một cuộc chia tay khá luyến tiếc, bùi ngùi...
Tôi đến xứ sở này để làm gì khi ngoài kia sắp sửa mưa vùng gió vội? Tất cả đều từ một địa danh Phương Bối và từ một con người đến với nhiều lời đồn đại thành một huyền thoại Sơn Núi giữa núi rừng B,lao.
Từ quốc lộ 20 theo hướng Sài gòn lên vượt qua cầu Đại Lào. Tôi dừng chân và bước xuống xe đò với một tâm trạng phấn khởi và hào hứng. Chuẩn bị cho mình một cuộc hội ngộ không dự kiến và định sẵn điều gì, chỉ với cảm giác tò mò và thích khám phá. Bấy nhiêu đó đủ để tôi gói ghém và cất giữ như là một thứ hành trang cho riêng mình trên bước đường du ngoạn. Mọi thứ nơi này với tôi đều lạ lẫm, tôi cứ từng bước, từng bước chân thầm lặng của mình để thăm dò và cảm nhận
Từng cái lắc đầu khi hỏi về Phương Bối thoạt đầu tiên không khiến người ta có cảm giác hụt hẫng. Cho đến khi tôi dừng chân ở nhà trọ số 1. Mọi chuyện bắt đầu suôn sẻ hẳn lên...
Lên tầng hai của ngôi nhà nghỉ, căn phòng tôi thuê có cánh cửa chính nhìn về dãy núi phía tây thì phải ( tôi mơ hồ nhận định như thế) nơi có từng dãy đồi thi nhau chen lấn và chạy dài đến chân núi. Mây buổi chiều bàng bạc và xám, lúc này tôi chỉ cảm nhận phía trước mặt mình là một màu xanh của cây đã thẫm lại và chạy xa đến tít tắp.
Đưa mắt nhìn về phía đồi xanh xa xa kia. Phải chăng nơi đó là Phương Bối? Sự khẳng định của chủ nhà rằng nơi đó chính là nơi ở của lão "dị nhân" Sơn Núi khiến tôi bất giác mỉm cười. Ít ra sự phán đoán của tôi đã có phần chính xác. Tự thưởng cho mình bằng những dòng nước mát lạnh của xứ sở B,lao sau một chặng đường khá xa, tôi bắt đầu thấy sảng khoái thêm. Khóa cánh cửa phòng xong tôi vội xuống dưới đường lộ. Nơi đó, bác xe ôm chuyên chở "dị nhân" Sơn Núi được bà chủ nhà trọ kêu giùm đang ngồi đợi . Sau cái gật đầu và vài lời trao đổi xã giao, chúng tôi vội tiến thẳng đến Phương Bối đang cách đó khoảng chừng 3km.
Chiếc xe máy vừa leo lên một con dốc cao, trước mặt tôi là một rừng thông bạt ngàn bên tay trái, những cây thông xanh đang lắc lư trong gió chiều. Chúng chào đón người khách lạ mới đến hay là đang hò reo vì sắp được mẹ thiên nhiên tắm rửa? Chẳng cần biết chúng làm gì, nhưng cái khung cảnh đó khiến tôi có cảm giác bàng bạc và chùng chình. Những đám mây đen kéo ngang qua như báo hiệu một trận mưa lớn sắp về. Bất chợt tôi nhớ câu thơ của lão dị nhân Sơn Núi:
Rừng thông Sơn Núi
"cây rừng chuyển giọng sầu đưa
nhịp vang theo nhịp như xưa lắm rồi"
Tôi mường tượng được phần nào của giây phút đổi thay đó, nó giống như một cảnh tượng hỏi han hay vỗ về an ủi gì đó, những cành thông như những cánh tay níu với nhau, thân cây khẽ lắc lư, chúng cứ thế mà múa may trước gió, bởi chúng vốn chỉ biết đón nhận những đổi thay của thời tiết như một lẽ tự nhiên đi và đến...
Thảm cỏ xanh mượt, mọc thoai thoải theo quả đồi nhỏ, vài cụm hoa dại lẻ loi, vài tàn cây lâu năm như một nhà hiền triết đang chiêm nghiệm thăng trầm dâu bể. Phương Bối Am chỉ còn lại dấu tích như vậy, đồi Thượng đã chìm sâu vào trong từng gốc cây ngọn cỏ, tất cả đã là quá vãng...Tôi không hề thất vọng hoặc ngạc nhiên vì sự thay đổi này, bởi tôi cũng đã mường tượng được phần nào của Phương Bối. Phương Bối Am đã "trở về cát bụi" từ thuở nào rồi, cũng ngót nghét gần tròn 40 năm, chiến tranh đã cuốn phăng đi mọi thứ, cái còn sót lại ngày hôm nay có chăng là những vùng đồi xanh cỏ hoặc giả con suối khô đã nước từ lâu, đó là những gì sót lại từ hoài niệm xa xôi... Và hôm nay Phương Bối đã hóa thân rồi, Phương Bối với gia đình Nguyễn Đức Sơn là một, như là máu thịt thiêng liêng...
Dấu tích Đồi Thượng ( hình chụp buổi sáng)
Băng qua đồi Thượng mới đến được ngôi nhà mới của lão dị nhân Sơn Núi, ngôi nhà cũ ngày trước của lão nằm ở Đồi Thượng. Căn nhà gỗ khi xưa vốn là một ngôi nhà sàn để tránh thú dữ thời đó, sau này lão đến ở và sửa lại thành một ngôi nhà nhỏ nằm trên đồi. Nơi ấy bây giờ là nơi ở của cô Phượng và hai người con gái út Yên và Phương Bối... Từ bên dưới đi lên, ngôi nhà đó có lối đi rất đẹp, hai hàng thông già mọc đều răm rắp và thẳng tắp, vút cao, kiêu bạc...
Lối lên của ngôi nhà gỗ từ bên dưới triền đồi
Chiều xuống rất nhanh, mới đó mà trời đã sẫm lại và không còn giọt nắng. Trên căn nhà gỗ thấp thoáng một bóng người phụ nữ cao gầy, theo lời bác xe ôm giới thiệu đó chính là cô Phượng vợ của lão Sơn Núi. Bóng người đó đi xuống đồi hòa với bóng núi rừng nhập nhoạng, mờ ảo như một bức tranh sáng, tối...đưa chúng tôi vào nơi lão "dị nhân" Sơn Núi đang ở... *
* *
Ngôi nhà của lão "dị nhân"
Tôi có tổng cộng 3 lần ghé thăm lão Sơn Núi. Cả 3 lần đều là những cảm xúc thú vị khác nhau và tôi sẽ lần lượt kể từ từ những cảm xúc đó...
Đây là lần đầu tiên tôi gặp lão, có những thoáng bỡ ngỡ trong xúc cảm. Trước mặt tôi là ông già 70, người thâm thấp, dáng đi chậm rãi. Tôi vội chào ông và giới thiệu mình là một người khách phương xa, chỉ biết ông qua phương tiện thông tin đại chúng. Ông bật cười khề khà và nói thật chậm " Ở xa đến chơi...nha...nha...có lận dao hay lựu đạn trong người không?" Tôi bật cười vì sự dí dỏm của lão và cũng một phần khá bất ngờ kia nên cứ thế cười ha hả. Cô Phượng nhìn tôi cười rồi lặng lẽ vô nhà sau rồi mất hút trước khi kịp nhận lại tôi cái gật đầu và câu chào đáp lễ. Lão dắt tôi xuống dưới, nơi có cái hành lang giữa hai ngôi nhà. Ở đó có một cái bếp củi dùng để nấu nước tắm thì phải, vài thanh củi khô để kế bên, ngoài ra có một chiếc chiếu cói được cuộn lại bên góc. Lão nhặt lấy chiếc chiếu trải ra để mời tôi ngồi chơi, tôi cũng phụ lão trải chiếu và lão căn dặn rằng chỉ trải nửa chiếc thôi. Tôi cũng thật sự tò mò không biết vì sao, nhưng không dám hỏi và chỉ thầm nhủ " chắc vậy mới dị nhân".
Lúc này bác xe ôm đã về lại nhà. Bác ấy chỉ quay lại đón tôi khi nào tôi muốn về. Tôi xin số điện thoại của bác xe ôm cho tiện liên lạc, thì lão "dị nhân" Sơn Núi đã vội đọc cho tôi nghe. Và càng bất ngờ hơn là được biết lão có thể nhớ đến 50 số điện thoại của những người thân quen. lão xài điện thoại không hề lưu tên, chỉ bấm và gọi khi nào cần thiết. Một trí nhớ thuộc hàng "siêu đẳng"...
Tháo bỏ đôi giày ra tôi ngồi xuống cạnh lão, lão chăm chú nhìn tôi và cũng cái giọng chậm rãi đó rồi nói " Mi mang giày chi vậy, không nghe thấy nó kêu lộp cộp, điếc tai sao?" Tôi bật cười nói rằng " là do không biết nơi này như thế nào? Tôi chưa lần nào đến, cứ nghĩ đồi núi khó đi nên mang giày cho tiện". Lão mới nói rằng nơi đây có một vài người giày da bóng lộn thuộc "giai cấp bảo vệ" bị lão chửi hoài. Nhìn giày bóng loáng vậy chứ đầu óc xù xì lắm...ha ha...Thật đỡ không nổi tình huống này mà.
Lão bắt đầu kể chuyện, những chuyện thời sự gần đây. Lão nói về Phật giáo và những chuyện tha hóa của nó cũng như con người đang sa lầy trong đó. Cứ phải ôm lấy tượng Phật thờ phụng mà chẳng hiểu hết những
vi diệu từ bên trong...Lão kể có lần lão đến một ngôi chùa và ăn cơm ở đó. Một lát sau vị trụ trì nọ đi xuống thấy lão đang ngồi ăn cơm, vị trụ trì đó có ý trách lão sao "ăn cơm trước kẻng" (ý nói chưa cúng Phật đã vội ăn trước). Lão mới bình thản nói " Tôi tưởng ông xưa nay chỉ nuôi tăng ni trong chùa, hôm nay mới biết thêm ông nuôi cả Phật)...Khà khà...Lão cười khoái chí. Tôi cũng cười theo vì thấy cũng thú vị. Bất ngờ lão quay sang tôi nói " Ta thấy mi giống cái mặt quá, mà mi có biết cái mặt không?". Tôi nói - Tôi có biết! rồi lắc đầu cười. Lão nói "cái mặt" hay lắm, thằng Ô ba ma cũng cái mặt, thằng ăn xin cũng cái mặt, mà "cái mặt" nào chẳng giống "cái mặt" nào. Xong rồi lão nói đến chính chị chính em, nào là như thế này, nào là phải thế kia, thế nọ...vân vân...Lão nói " Nếu thế giới mà không có lò mổ và chế tạo vũ khí thì tốt biết mấy" . Tôi im lặng nghe lão nói và lão tự giải thích theo kiểu nửa vời của lão. Trong lão không bao giờ nói trọn vẹn một điều gì, chỉ lấp lửng để đó. Nếu có hỏi thì lão cũng chẳng giải thích thêm, cứ để lơ lửng vậy cho mọi người suy nghĩ.
Cuộc trò chuyện của tôi và lão càng về sau càng cởi mở hơn, tôi cũng đã hết ngượng ngập vì lão dễ chịu hơn tôi tưởng. Thỉnh thoảng lão hay chửi tôi ngu và rồi lão thắc mắc rằng tại sao không cãi lại lão. " Quảng Nam hay cãi mà sao mi không cãi?". Tôi trả lời rằng " Tôi từ Sài gòn xuống đây để cãi với lão sao?" Sao phải bôn ba thế, tôi chỉ muốn xuống thăm lão và ngồi nghe lão trò chuyện. lão không tin và cho rằng tôi còn cái gì đó hơi mờ ám thì phải...ha ha.
Trò chuyện một lúc tôi quay sang chụp hình lão, chụp lén thôi nhưng bị lão phát hiện và làm như thế này đây
Lão "dị nhân" Sơn Núi
Và lúc đó tôi chợt hiểu vì sao có những bức hình ngộ nghĩnh của lão. Hình như đây cũng là một nét rất riêng của lão, chắc có lẽ muốn mọi người nhìn lão bằng một tư thế khác, một khi cảm nhận về điều gì đó thì phải xuyên suốt chăng?
Lúc này trời chuyển mưa lớn, những cơn gió mang hơi lạnh từ những cơn mưa của núi rừng tạt vô nơi chúng tôi ngồi lạnh tê tái. Đành phải di cư thôi! cuốn chiếc chiếu lại và nói lời tạm biệt với nó, tôi và lão chuồn vô nhà sau. Lúc này tôi mới được nhấm nháp vị trà của B,lao dưới một cơn mưa chiều. Cảm giác thật ấm áp, thú vị. Rít thêm một hơi dài thuốc lá nữa cho nó thêm phần sảng khoái, tôi nghe lão càu nhàu rằng tại sao phải hút thuốc, có biết rằng thuốc lá nó giảm trí nhớ đến mức nào không? Lão ghét tôi hút thuốc lá lắm, từ lúc gặp mặt lão cho đến lúc tôi về lại Sài Gòn thỉnh thoảng lão hay chửi tôi về vụ đó.
Lúc này trời đã tối lại và tôi gọi bác xe ôm đến rước. Mưa càng lúc càng to, trong nhà lúc này ngoài tôi với lão thì có cô bé tên Huyền ở Bình Phước. Huyền là bạn của con lão, ghé xuống thăm thì phải. sở dĩ tôi biết vì nghe lão hỏi thăm cô bé đó, không biết cô bé đó xuống bao giờ nhưng theo cách hỏi chuyện thì tôi đoán hôm nay lão mới hỏi thăm và trò chuyện cùng cô bé. lão hỏi cô bé về gia đình, bố mẹ...Nhưng cũng có điều mắc cười là có đoạn lão nói với cô bé rằng " ba mẹ ở nhà có cất lựu đạn không?". Tôi thật sự không biết vì sao lão hay nhắc đến lựu đạn và chiếc còng số 8. Nhưng cứ trong một cuộc trò chuyện là lão hay nói đến nó một vài lần. Chiếc còng thì ngay từ lúc tôi gặp lão đã hỏi tôi rằng có mang theo chiếc còng nào không? Riêng lão thì lão báo cho tin mừng là lão đã chế tạo thành công chiếc còng số tám rưỡi. Lúc đó tôi nói tôi chế được chiếc còng số chín...ha..ha..Lão nghe nói vậy vội phì cười và nói " Vậy thì giỏi rồi đó...nha...nha..."
Bác xe ôm đến rất nhanh và buộc tôi phải đứng lên ra về trong tiếc nuối vì cuộc trò chuyện đang lên cao trào. Thôi đành chịu tiếc vậy, hẹn ở buổi sáng mai. Tôi vội vàng chào lão ra về trong tiếng thúc giục của bác xe ôm ngoài kia, dường như tôi có nghe lão nói gì đó tiếng được tiếng mất át trong mưa gió...có cái gì...nha... nha...
Nhật ký B'Lao (tt) - hothiethoa - 24-06-2013
"Cầu Mai ắt hẳn ở ngoài kia, nơi tôi vừa ngang qua, tàn tích nó bây giờ là một cái rãnh không sâu lắm cắt ngang lối đi vào, bên dưới kia là Tiểu Khê thì phải? Con suối nhỏ đó đã im lặng từ thuở nào rồi, nó đã quên lời trò chuyện, quên tiếng thì thầm róc rách từ khi dòng suối nhỏ đó đã cạn kiệt cách đây đã mấy chục năm..."
Trở lại nhà ông vào sáng hôm sau. Núi rừng ở đây dường như dậy muộn, tôi có cảm giác như mình vừa ngắm một cô gái đang ngái ngủ trên giường. Bức màn sương mỏng toang đang cố tình che đậy những vùng đồi núi nhấp nhô, ẩn hiện, ánh nắng yếu ớt như đôi mắt lim dim say ngủ, chợt sáng lấp lánh rồi lại tắt lịm đi sau cú trằn mình của đám mây trời trôi ngang qua. Như chưa chuẩn bị cho mình một ngày mới nên cô gái B, lao cố níu kéo để chìm sâu trong giấc ngủ, mặc cho thời gian đang trôi qua trên từng thời khắc. Tôi có cảm giác nơi này vừa dễ thương lại vừa dễ ghét. Chờ đợi chờ điều gì hả B,lao?
Những bước chân tôi rải đều trên thảm cỏ Phương Bối, cơn mưa đêm qua vẫn còn lưu lại vết tích khắp nơi này, những tán lá, cỏ cây nơi đây vẫn còn đẫm ướt...Sáng nay tôi ngắm nhìn nơi này thật lâu, tôi dạo quanh khắp vùng đồi và đang cố hình dung lại Phương Bối Am thuở đó. Cầu Mai ắt hẳn ở ngoài kia, nơi tôi vừa ngang qua, tàn tích nó bây giờ là một cái rãnh không sâu lắm cắt ngang lối đi vào, bên dưới kia là Tiểu Khê thì phải? Con suối nhỏ đó đã im lặng từ thuở nào rồi, nó đã quên lời trò chuyện, quên tiếng thì thầm róc rách từ khi dòng suối nhỏ đó đã cạn kiệt cách đây đã mấy chục năm. Đồi Thượng đang ngơ ngác nhìn xem gã khách lạ từ phương nào đang dò dẫm kiếm tìm. Cứ thế tôi đi lên đi xuống một cách mơ hồ, tự hỏi và tự trả lời. Phương Bối Am như chiếc lá đa ngày cũ nay đã chìm sâu vào lòng đất, nhưng sao tôi có cảm giác hương thơm ngày nọ vẫn còn lẩn khuất nơi đây. Thật sự khi đứng trước một chứng tích xa xưa, con người khó có thể tránh sự xúc động, và nhất là trong thời khắc này khi một mình đứng giữa thiên nhiên thì càng khó tránh khỏi điều đó. Những thứ này chỉ là cảm nhận của mỗi con người, rất khó lòng lý giải, chỉ biết nó đã trôi qua và lắng đọng được nhiều hay ít thì tùy ở mức cảm thụ của mỗi người...Với tôi lúc này thì nơi đây vẫn là Phương Bối cho dù nó đã thật sự thay đổi dung mạo. Bởi nơi đây vẫn còn lưu giữ một chiếc lá khác của Văn học Miền Nam một thời, chiếc lá này như trò đời sấp ngửa, cuộn mình bay giữa núi rừng B,lao trước bao cặp mắt trần tục dáo dác nhìn theo, đánh đố mọi câu hỏi và hồ nghi của người đời, chiếc lá lật nhào tất cả khái niệm thông thường vốn có để rồi ngạo nghễ buông tiếng cười sảng khoái, tiêu diêu...Chiếc lá giữa muôn vàn chiếc lá mà sao không thể lẫn vào đâu được. Đó chính là Nguyễn Đức Sơn với chiếc lá vàng mỏng manh nhưng bay bổng và cuộn trào giữa tha nhân, thế tục...
Tôi bước vào nhà lúc lão và cô Phượng đang ăn sáng. Buổi điểm tâm hôm nay là ổ bánh mỳ và ly sữa không đường. Lão cùng tôi ra phòng khách trò chuyện. Lão nói tôi biết là Duy Trác đã về VN rồi nhưng không thể ghé thăm ông được, lão giải thích vì sao Duy Trác không thể ghé thăm lão cho tôi và cô Phượng nghe...Có vài cuộc điện thoại đến hỏi thăm ông, và ông kể cho tôi nghe về những mối quan hệ tương quan đó, người này như thế này, người kia như thế nọ. Ở bất kỳ câu chuyện nào lão cũng đều có sự chê bai, nhưng khi đến phần kết thúc một điều gì đó lão đều có sự thừa nhận thành thật. Phải để ý lắm mới nhận ra điều đó, vì ông có thói quen bỡn cợt và phê phán chua cay. Ví dụ như lão nói về cô gì đó tên Thu Nguyệt thì lão giới thiệu tên cô ta là Thu Ngiệt (nói lái là thiệt ngốc) rồi cười khà khà, sau khi nói đã đời rồi mới kết luận rằng "con đó nó tốt lắm" .Lão thích chọc cho người khác nổi điên thì phải, nó cũng gần giống như thử sức chịu đựng của một con người. Con người bản ngã rất lớn nên thương hay chấp trước, có lẽ thế nên thuốc thử của lão là những câu chửi và cợt đùa chăng? Có lần theo lời lão kể rằng lúc ông vừa lên trên này, có đôi vợ chồng thương nhân nọ rất giàu, thường hay giúp đỡ lão. Một hôm người vợ của tay thương nhân đó hỏi ông là tại sao ông hay chửi nhiều người mà không thấy bao giờ ông chửi vợ chồng họ? Lão mới nói rằng " Thiên hạ có nhiều cái mặt lắm, vợ chồng mi cũng cái mặt mà có điều khác người ta. Thiên hạ thì có vài cái xấu nổi bật lên để chửi, riêng vợ chồng mi thì cái xấu đều hết nên không thể tìm ra cái nào nổi bật để chửi thôi"
Hay như khi nói về Bùi Giáng ông thường nhắc "thằng đó tốt lắm nha...nha... nó một thời đã từng giúp đỡ tôi...nha...nha" và rồi trầm ngâm nhìn về phía xa xăm...
Sáng nay lão đề nghị tôi và lão cùng đi uống cafe ở quán Lối Xưa trên Bảo Lộc. Chúng tôi gọi bác xe ôm kia đến và phải đi hai chuyến. Sở dĩ phải đi như vậy vì lão không thích đi taxi hoặc xe nào ngoài bác xe ôm đó. Lão gọi bác kia là tổng thống riêng của lão.
Một lát sau bác xe ôm kia đến đón chúng tôi ra ngoài lộ, tôi ngồi ở nhà bác xe ôm kia chờ đợi chuyến hai vì chuyến đầu lão lên trước...
*
* *
Quán nằm trong một hẻm nhỏ khá yên tịnh, đây là một quán quen thuộc của lão đến để hàn huyên, trà dư tửu hậu với bạn bè thập phương...
Khi tôi đến là lão ngồi đọc báo như tấm hình bên trên. Lão vốn thích yên tĩnh nên chọn một góc ngồi khá kín đáo, nhưng hôm nay quán đông khách, xung quanh lão có vài bàn khách nói chuyện rôm rả. Tôi đến thì lão phàn nàn rằng hôm nay ồn ào quá. Có vẻ như lão không thích cái không khí này khi bên tai cứ văng vẳng những tiếng cười đùa của những bàn kế bên nên thi thoảng lão quay sang nhìn tôi rồi nói "c..". Tôi phì cười, tôi không lạ gì tiếng chửi thề của lão, vì mỗi câu chuyện lão kể thường chêm vô vài từ giống như kiểu người ta nấu ăn phải nêm nếm gia vị. Đó mới là phong cách của Sơn Núi mà tôi rất thích, cũng có lẽ tôi là môn đồ của trường phái "nói tục" chăng, nên có sự đồng cảm cao độ.
Hôm nay lão nói tôi không phải là công an gì gì đó. Lão nói trông dáng đi của tôi chẳng thể nào làm hình sự được, chẳng có phong thái "rình mò" hay gì gì đó...Lão đang bắt đầu coi bói đây! Nói chung là lão bắt đầu chê bai tôi đủ điều. Nào là "Quảng Nam mà không cãi", nào là chẳng có lý tưởng hay mục đích gì hết, sống vậy sống làm gì, ngu lắm...ha ha...Rồi lão khẳng định "Quảng Nam có nhiều thằng giỏi lắm ...nha...nha...Nhưng trong đó không có mi...nha nha..." Nói xong lão phá lên cười hí hững coi bộ sảng khoái lắm. Tôi cũng cười, và đến lúc này tôi mới "chém gió". Gì chứ ra quán để mà "trà dư tửu hậu" thì tôi thừa sức qua cầu. Tiếc là lão không biết uống rượu, chứ nếu không "rượu vào lời ra" thì tôi chém lên đến đỉnh Phang xi phăng chứ đỉnh Langbiang này chưa đã lắm. Tôi nói với lão dáng đi của tôi ' phiêu bồng rớt hột" zậy mà lão dám chê. Nào là phong thái đỉnh đỉnh, êm nhẹ như mây...vân vân...Lão bật cười ha hả. Lúc này tôi và lão như giật được cái micro của quán rồi, nên không cần biết gì đến xung quanh mà cứ thi nhau "chém". Nào là Trịnh, là Phạm sách trời, Dê tử lu đều đem ra "chém gió" rào rạt. Thực khách ngơ ngác, mưa bay, gió chạy...tiếng tôi cười và tiếng chửi thề của lão cứ thế hòa theo mưa theo gió.
Lão rất hiếm khi nói về thi ca, chỉ xen kẻ ngang qua trong phút cao hứng thôi. Tôi khiêu khích đọc vài câu thơ của lão. Lão đưa mắt xa xăm rồi nói rất nhẹ " Đó là những ngày xưa, lúc đó nó có gì đó ghê gớm lắm mà bây giờ không thể nào tìm lại được...".
"tháng bảy dì về đơm nhãn
nhớ mang ra ít giạ chiêm
ruộng xưa cò bay thẳng cánh
gặt hái vừa độ trăng liềm..."
Tôi ngâm nga mấy câu thơ kia rồi nhìn lão chờ đợi...Có một chút gì đó như hừng sáng lên trên khuôn mặt già nua, khắc khổ kia. Nó xóa lấp đi nét hằn học thường nhật hay thấy và thay vào đó là tia nhìn dịu lại và mơ màng..." Thuở đó lúc còn nhỏ tôi thấy nhà bên hàng xóm có ông kia vào một buổi chiều cầm thanh gươm về. Ông đó là Việt Minh vừa đi giết bọn ác ôn địa chủ xong, thanh gươm đầy máu me. tôi sợ quá la lên, ông ta mới cầm thanh gươm dứ dứ dọa tôi, tôi liền trốn vô nhà..."
Rồi lão ngâm nga:
"quê mình ai còn ai mất
đi rồi gươm súng mùa thu
khóc mãi từng đêm lưu lạc
nói ra thêm oán thêm thù"
"Câu đó hay lắm, đến bây giờ vẫn còn hay..." đi rồi gươm súng mùa thu, nói ra thêm oán thêm thù". Thuở đó tôi viết những câu đó là cả một sự trăn trở và dằn vặt ghê gớm..."Lão bất chợt trầm ngâm tưởng nhớ. Đó cũng là giây phút hiếm hoi tôi thấy sự xúc động biểu hiện rõ rệt trên khuôn mặt của lão...
Rồi lão kể cho tôi nghe những chuyện của Bùi Giáng. Lão kể theo kiểu của lão có chút dung tục, nhưng tôi cũng đoán chắc đó là sự thật. Đối với lão không cần thiết cái chuyện lấy tiếng lấy tăm mà họ Bùi với lão thì "kẻ tám lạng, người nửa cân" cứ ngông nghênh trên cõi ta bà này, hí lộng đủ điều và hơn hết là coi thường thị phi của thế tục.
Lão nói tôi rằng" mi không thể nào viết một cái chi ra hồn được, không thể nào làm cái gì lớn lao được". Tôi hỏi vì sao? Lão đáp ngay rằng: "Mi còn nặng tình quê hương lắm...nha...nha. Mi cứ coi Bùi Giáng hay mấy thằng xứ mi là cái gì đó lớn lắm là không được...nha nha...Zậy nên mi không thể viết cái gì ra hồn được...nha nha..." . Tôi nói vậy phải đạp xuống hết hỉ? Lão nhìn tôi cười nắc nẻ rồi nói: " Tụi nó viết về tôi sai bét, chẳng viết cái gì cho đúng cả. Tôi nhớ có lần tôi chửi ông nhà văn kia khi ổng viết về tôi. Tôi nói : " Tôi tiếc là ông là nhà văn...nha nha...nên tôi không chửi ông được" khà khà...Chuyện đó tôi cũng đã từng nghe, nhưng bây giờ nghe ông nói lại vẫn còn thấy hấp dẫn. Bởi khi ông kể là cả một điệu bộ, từng cảm xúc cứ thoáng hiện về như vừa mới đây thôi mắc dù nó đã "thăm thẳm chiều trôi" từ đời nào rồi. Tôi nói với lão sau này tôi sẽ viết về lão và viết thật xấu, lão nói tôi cứ viết đi, viết cho xấu vào vì trên đời này chẳng có gì đúng cả. Xấu hay tốt đều cũng thế thôi...Chính vì khi nghe điều này khi đó tôi đã không muốn viết gì cả, nhưng rồi tôi nghĩ đây là một chuyến đi du ngoạn của tôi mà theo lời lão nói là tôi đang "lang bạt kỳ hồ", nên tôi lại viết. Viết theo những gì tôi thấy, tôi cảm nhận cá nhân dẫu biết rằng là nó còn chưa đúng, còn quá mơ hồ...Nhưng tự ru mình bằng một làn điệu có tên gọi "kỷ niệm". Vâng! Đúng là một kỷ niệm trong những kỷ niệm khó quên...
Cái từ "lang bạt kỳ hồ" mà lão dành cho tôi là lúc tôi về Sài Gòn rồi. Lúc đó trong cuộc điện thoại hỏi thăm lão căn dặn tôi phải kiếm cho mình một chiếc xe máy đàng hoàng, có đầy đủ dụng cụ như đồ nghề, đèn pin để đề phòng hỏng hóc giữa đường. Lúc đó tôi bật cười và cảm động thật sự.
Trời lúc này đã tạnh mưa, quanh chỗ tôi và lão ngồi mọi người đã ra về. Lúc đó bé Thanh đang dọn dẹp những ly tách trên bàn. Bé Thanh làm ở quán Lối Xưa và quen lão biết lão đã 5 năm rồi. Lão giới thiệu tôi với bé Thanh rằng nhìn tôi giống "cái mặt" không? và lão nói "nó là cái mặt đó". Bé Thanh và tôi cùng cười, rồi lão chỉ ra bụi tre đằng ngà trước quán lão nói : "Bụi tre đó cũng là cái mặt, thường thì tối tối mấy cái mặt hay vô đó cái mặt lắm" ha..ha...Lúc bé Thanh dọn dẹp xong đi vô trong lão mới nói tôi "Con đó nó tên Thôn chứ không phải tên Thanh, nhưng nó rất Lành" Nói xong lão bất chợt hỏi tôi tên gì? Tôi nói tôi tên Thọ. Thật ra từ hôm qua đến giờ tôi không giới thiệu tên tôi cho lão biết. Bởi lão nói tôi tên "cái mặt" ngay từ đầu và tôi chấp nhận luôn tên đó rồi. Nên những khi tôi gọi điện thoại cho lão tôi đều xưng tôi là "cái mặt" và lão cũng nhận ra "cái mặt" của tôi. Khi nghe tôi giới thiệu tên thật mình xong lão mới nói tôi và bé Thanh đó giống nhau...con kia tên Thôn còn mi tên Thồn hai đứa đều Lành hết...ặc ặc. Lão cười khoái chí lắm. Tôi mới nói rằng tôi đến từ Đê Tiện Hội nên mấy chuyện này đối với tôi là chuyện nhỏ. Lão hỏi lại đến từ đâu và tôi đáp đến từ Đê Tiện Hội nên "kim cương bất hoại" tất cả đối với tôi đều vô nhiễm hết...ha ha.
Lúc này lão đòi về ăn cơm, tôi mời lão cùng tôi ăn cơm nhưng lão không chịu. Đành phải gọi "tổng thống riêng" của lão lên rước lão về trước còn tôi cũng như lần trước là ngồi đợi chờ chuyến sau.
Trong khoảng thời gian ngồi đợi thì tôi và bé Thanh trò chuyện. Thú thật tôi cũng rất ngạc nhiên đôi chút về bé Thanh. Bé Thanh rất quí lão và đặc biệt thích thơ văn của lão. Trong 5 năm quen biết và không ít đôi lần "cự cãi" cùng lão về những chuyện vui vui...Nhưng Thanh lúc nào cũng mến phục lão . Thanh giới thiệu tôi về vùng đất này, cái xứ sở quanh năm dịu mát và những nắng mưa bất chợt. Ở bên phần đầu tiên của nhật ký tôi có câu viết rằng " Tôi đến nơi này làm gì khi ngoài kia mưa vùng gió vội" . Cụm từ "mưa vùng, gió vội" là tôi viết theo nhận định của tôi qua lời kể giới thiệu của Thanh về vùng đất này. Trời dịu mát, thỉnh thoảng lại có vài cơn mưa rất nhanh rồi thì tạnh lại. Cho dù mùa hè cũng không nóng lắm và không lạnh như Đà Lạt. Những hôm nay Bảo Lộc vào mùa mưa nên thời tiết thay đổi liên tục trong ngày, cứ nắng mưa bất chợt...Tôi ngồi trong quán chừng hai tiếng đồng hồ mà đã có mấy lần mưa, nắng... Tôi nói với Thanh là tôi thích sự tĩnh lặng, không ưa đến những nơi xô bồ vì nơi đó nó rất loãng, mất đi sự cảm nhận thuần túy. Thanh là cô gái có chiều sâu nội tâm rất tốt, qua cách cô trò chuyện tôi nhận thấy cô gái này có hơi hướng về Phật giáo và định luật vô thường...có phải vì có những khái niệm như vậy nên Thanh cảm thấy rất gần với lão chăng? Bởi ở trong sâu thẳm của lão là có một khoảng trời mênh mông, bạt ngàn, kỳ bí...
Người đàn bà trên đồi Phương Bối - hothiethoa - 27-06-2013
" cao dong dỏng, đầy nhựa sống, mắt mày đen nhánh, mái tóc thậm thượt chảy xuống hết lưng mà vẫn còn lăm le nhảy tràn lên trán. Ánh mắt tưởng chừng như một hư chiêu, vừa phóng tới là chạy lệch làm nhột tai người đối diện, nụ cười như vừa mới tập đầu hôm."
5 - Người đàn bà trên đồi Phương Bối
Tôi sẽ cắt ngang một đoạn để nói về người đàn bà này. Với tôi cô là một cái gì đó khó mà diễn tả hết, dường như khi bắt đầu biết về Nguyễn Đức Sơn là tôi đã lưu lại cho riêng mình những cảm xúc về cô rồi. Tôi đóng khung lại và cất nó ở một ngăn khác. Một ngăn chẳng dính dáng đến văn chương hay bất kỳ một điều gì khác, nó chỉ đơn thuần xuất phát từ sự cảm nhận cá nhân, mà có lẽ là từ sự trân trọng và quí mến thật sự của tôi trước một mảnh đời.
Bất kỳ bài viết nào khi viết về lão đều ít nhiều dính dáng đến người đàn bà này. Có người gọi là "Người đàn bà trên đồi cỏ",có người nói cô là "vĩ đại", có người tả về cô rất đẹp thuở thiếu thời...vân vân... Tôi đọc những đoạn đó một cách say sưa và giữ riêng cho mình. Thật sự thì tôi không thể tin hết những điều người ta nói. Phải hiểu rằng tôi từ lúc đó cho đến bây giờ vẫn không hoài nghi về sắc đẹp của cô. Bạn có thể nhận ra tôi gọi "người đàn bà" này là cô Phượng. Tôi xưng hô là cô bởi vì trong tôi không có khái niệm cô đã già, hoặc đã tàn phai. Tôi muốn cô mãi mãi như thế, vẫn đẹp như thuở nào, đẹp đến nao lòng cho dù ngoài kia bánh xe thời gian đang luân chuyển, vòng đời đang tàn phá một cách không thương xót lên đôi vai gầy guộc. Những bão giông, tê điếng của cuộc đời cứ thản nhiên nhấn chìm, thế sao mà đối với tôi cô như có một vầng hào quang lấp lánh đang bao bọc lại.
Tôi nhớ có lần, lúc đó tôi chưa tiếp xúc và chạm mặt cô. Lúc đó tôi đang đọc bài viết của một người nào đó viết về cô. Trong đó có đoạn tả về đôi mắt cô, họ nói đôi mắt không còn như ngày xưa nữa, đôi mắt ấy bây giờ như u uất, vô hồn...Đại loại là như thế, tôi chẳng muốn tìm lại và trích dẫn làm gì vì tôi không tin đó là sự thật, hoặc đó chỉ là cảm nhận của những cảm nhận dành cho cô. Họ cũng như tôi có những cách diễn tả hoặc cảm xúc khác nhau khi nói về điều đó. Nhưng lúc đó bất chợt tôi có cảm giác căm phẫn và uất ức. Bởi trong tôi cô phải là giống như lời kể của nhà văn Bửu Ý " cao dong dỏng, đầy nhựa sống, mắt mày đen nhánh, mái tóc thậm thượt chảy xuống hết lưng mà vẫn còn lăm le nhảy tràn lên trán. Ánh mắt tưởng chừng như một hư chiêu, vừa phóng tới là chạy lệch làm nhột tai người đối diện, nụ cười như vừa mới tập đầu hôm."
Có một thứ gì đó bất chợt trào lên ngay cuống họng, nghèn nghẹn mà không sao thốt lên được. Tàn nhẫn quá, đau xót quá!! Thời gian hay con người đã hủy hoại cái vẻ đẹp kia? Có thể mọi người phì cười rằng là tôi đã quá căng thẳng, hay có một thái độ gì đó hơi thái quá...Không hẳn các bạn đã vô lý. Nhưng nếu chịu nghe tôi diễn giải các cảm xúc của tôi thì các bạn sẽ hiểu được phần nào của vấn đề...
Cô mang trong mình hai dòng Pháp - Việt và lớn lên trong một ngôi chùa. Rồi bắt đầu trở thành cô thiếu nữ xinh đẹp theo cái kiểu " Em hiền như ma - sơ ". Cho đến khi trở thành vợ của lão Nguyễn Đức Sơn trong một lễ cưới mà sính lễ được chuẩn bị lúc bấy giờ là một tập thơ "Đêm Nguyệt Động"... Trong thâm tâm tôi thật sự ngưỡng mộ và cảm thấy lãng mạn bậc nhất. Tôi thầm nghĩ rằng lúc đó ắt hẳn lão sung sướng lắm. Vừa có người vợ đẹp, vừa có được những đứa con tinh thần của mình chào đời. Quà là đấy, tình là đấy! Nó cứ như giấc mơ, cứ triền miên bay bỗng, du dương và mặc sức tận hưởng. Lão vốn nổi tiếng kỳ dị và quái đản. Thế nên khi một người con gái nào chọn lựa lão để làm người "nâng khăn sửa túi" phải chăng có sự rung động sâu xa trong tận tâm hồn? Tôi chẳng hoài nghi về điều đó, bởi thời gian đã xác tín rồi.
Chẳng biết mọi người nghĩ sao, nhưng riêng tôi thì luôn có một khái niệm rằng: Những người vợ của nhà thơ thường phải chịu nhiều tổn thương và khổ cực". Ngoài những thiên chức làm vợ, làm mẹ ra họ còn có bổn phận gồng gánh cả một gia đình. Mấy ai làm thơ mà nuôi sống bản thân? Mấy ai viết lách để trở thành giàu có? Ngoài ra về mặt tư tưởng, tinh thần cũng phải chịu những sức ép, đối chọi khốc liệt...Một khi thơ ca là để hiến dâng cái đẹp thì sự tranh đấu lúc nào cũng xảy ra thường trực trong đầu của "đức lang quân". Nếu chẳng may thất bại hoặc vấp ngã, thì hậu quả kia sẽ dành riêng cho người 'nội tướng" bên cạnh mình gánh chịu.
Gần suốt 40 năm lăn lộn trên những ngọn đồi này, cô đã có những gì cho riêng mình? Tài sản là những đứa con, là tình yêu thương của lão và một màu xanh của rừng thông bạt ngàn...hay là sự nếm trải cơ hàn trong suốt một quảng đời của mình? Từ lúc tôi bắt gặp cái dáng mảnh mai kia từ căn nhà gỗ trên đồi đi xuống cho đến lúc đối diện và trò chuyện cùng cô, ở trong tôi lúc nào cũng có sự thương cảm và kính phục sâu sắc. Đôi mắt tôi gặp lúc này rất dịu hiền, đôi mắt như có cảm giác đang nhìn xuống và ban ơn. Một ánh nhìn ẩn chứa đầy tính vị tha, nó rất lặng lẽ và nhanh chóng tản ra nếu ai đó chạm phải, giống như là muốn che dấu sự khổ hạnh của mình...Hay là từ những vết chân chim, những nếp nhăn dày khít trên gương mặt xinh tươi ngày nào, khiến cho những người thân quen ngày trước khi bất chợt nhìn thấy có cảm giác u sầu chất chứa, hoặc giả thương cảm mà thấy trở nên chua xót? Bởi ánh mắt đó rất hiếm hoi xuất hiện, nó như lẫn tránh mọi cái nhìn soi mói của người đối diện, nó chỉ ngước lên và cụp xuống rất nhanh, như vừa thảng thốt, vừa sợ hãi, như van xin đừng hỏi thêm điều gì, đừng nói nữa...Nhưng cho dù là bất kể điều gì tôi vẫn thấy nó long lanh. Nếu lỡ như nó vô tình đánh rơi một giọt nước mắt thì giọt nước mắt ấy nó đẹp hơn cả ánh pha lê. Vì trong đó nó mang đầy đủ dư vị của cuộc sống, đầy đủ thăng trầm, mất mát, đau thương và cả ngọt ngào hạnh phúc trong từng khoảnh khoắc mà cô nếm trải.
Nếu như lão hiến dâng cho thơ ca bằng cuộc đời, thì đối với gia đình của mình cô cũng giống như vậy thôi. Tôi không muốn so sánh, vì mỗi cái có giá trị riêng. Nhưng một khi hiến dâng tất cả đều là sứ mệnh cao cả và cùng thiêng liêng như nhau. Sẽ có rất nhiều những mảnh đời khác nhau, những người mẹ, người vợ khác nhau...Họ cũng tận hiến trong muôn vàn cách khác nhau để tròn trịa thiên chức của mình, họ cũng sẽ nhận được nhiều lời hoan ca khác nhau...Tôi biết điều đó đấy! Nhưng khi gặp cô rồi tôi không biết mình phải nói gì cho phải đây? Tôi sợ tất cả những câu hỏi, tôi sợ tôi đụng chạm điều gì đó khiến cô phải buồn, tôi sợ cả những cái giật mình xảy ra...Tôi không dám an ủi nếu tôi thấy chua xót, tôi không dám nói cao đẹp nếu vì quá ngưỡng mộ. Vì tôi sợ thiếu, tôi không thể đo lường hay đong đếm, vì tôi có cảm giác không thể nào là đủ là đầy, là trọn vẹn với cô...Tất cả trong tôi ngoài sự cảm thông và mến phục, tôi không muốn suy nghĩ điều gì thêm cả. Bởi tôi đang đối diện với một cái Đẹp, nên chỉ cảm nhận thôi và im lặng giữ lại cho riêng mình.
Căn nhà gỗ trên đồi luôn đóng cửa, rất ít khi mở ra. Nó cũng như chủ nhân của nó là khép mình giữa núi rừng B,lao để tránh né những ánh nhìn từ bên ngoài vào. Cứ như là tự nhiên nếu ai đó cảm thấy thú vị mà dừng lại quan sát, hoặc có thể là sự hờ hững để rồi trôi qua...
Ở trên đồi Phương Bối, trong ngôi nhà gỗ đó tôi chưa một lần bước vô mà chỉ đứng từ xa ngắm nhìn, nhưng có cảm giác một làn hương thơm phảng phất lan tỏa dần ra và tràn ngập cả vùng đồi này...tôi bất giác như mơ hồ đi lạc vào một nơi nào đó xa xăm, có bóng người đàn bà mảnh mai, cao gầy cứ thoắt ẩn hiện khắp núi đồi, bóng người ấy đổ dài trên từng vùng đồi đầy thông đang reo ca nhảy múa. Bóng người đó lặng lẽ và hiến dâng.
RE: Nhật ký B'Lao - hvn - 30-06-2013
Hôm nay mới đọc được bài ni. Sướng quá các cụ ạ
Nhật ký B'lao (phần cuối) - hothiethoa - 04-07-2013
" với tôi, thông với thơ là một.Trong núi thơ có đồi thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là núi thơ." NĐS
N h ậ t k ý B,lao
Trước hết tôi xin nói về nỗi cô đơn. Dường như trong mỗi cá nhân ai cũng đều có và chẳng biết nó bật dậy và bước đi từ khi nào mà thôi. Có thể ngay lúc này, sau đây vài phút, hoặc sau sau nữa...Nhưng cô đơn như thế nào thì mới là điều đáng nói. Ông gì đó xứ Ăng - lê mà tôi không nhớ tên có nói một câu đại loại rằng con người chỉ cô đơn khi đối diện với đồng loại, còn khi đứng trước thiên nhiên thì họ không thấy cô đơn. Mà tôi cũng thấy rất thú vị vì cũng đã đôi lần, cũng từng thích thú và đối diện thế. Mới ngay đây thôi khi hàn huyên với lão ở quán Lối Xưa, sau đó thì lão ra về tôi cũng đã nói với Thanh về chuyện đó. Thanh hỏi tôi rằng sao đi một mình? Và gợi ý rằng ở Đà Lạt cũng có những cái thú vị lắm và khuyên tôi nếu có thời gian thì nên lên đó chơi. Tôi trả lời rằng: Tôi không thích chốn xô bồ cho mấy! Ở đó sẽ có những cuộc vui riêng và dành cho số đông và tôi đối diện hàng ngày. Lúc này tôi chỉ muốn một mình để cảm nhận, cũng như muốn khám phá một điều gì đó mới mẻ, khác lạ...Để được tận hưởng, thích thú. Nó có vẻ như là cảm giác cô đơn mà thật ra không phải, nó là một cuộc kiếm tìm, là một cuộc hóa thân để thấy mình là chính mình. Niềm vui của tôi lúc này chính là sự tĩnh lặng và B,lao đủ để tôi dừng lại và ngồi xuống lắng nghe...Thanh mỉm cười gật đầu và không ngạc nhiên. Chắc Thanh đã quá hiểu vùng đất này, và cũng đã biết được mục đích tôi đến đây.
Ở Nguyễn Đức Sơn chắc hẳn đã xảy ra những điều như thế này...
Bỏ thị thành để về với núi rừng, với heo hút tịch mịch trong nhường ấy năm trời, thì ngoài những lý giải thông thường của người đời như là trốn chạy, bất mãn hay hay bất kỳ một lý do nào đó đi chăng nữa thì cũng chỉ nhận xét sơ sài và không chính xác hết được. Nó cũng giống như câu chuyện trong lá thư mà Nguyễn Bắc Sơn viết gởi cho thiền sư Nhất Hạnh có đoạn như vầy:
" Có một người khách lạ đi ngang qua một thị trấn. Trong thị trấn ấy có ba người sốt sắng. Ba anh chàng này chặn ông khách lại. Anh chàng thứ nhất bảo ông khách: “Anh nên đi đường này”, trong khi anh chàng thứ hai bảo: “Không, đi đường kia mới đúng”. Nhưng anh chàng thứ ba lại bảo con đường anh ta chỉ cho ông khách mới thật là “con đường đúng nhất”. Ba người thi nhau vẽ bản đồ tỉ mỉ trình bày con đường mình đề nghị cho đến khi ông khách chậm rãi hỏi: “Các anh có biết tôi định đi đến đâu không mà các anh sốt sắng chỉ đường thế ?”
Riêng lão, tôi nghĩ nếu không có sự bền bĩ và một tình yêu bao la ,thì khó lòng mà chấp nhận được hoàn cảnh như thế. Với lão tình yêu thơ ca và tình yêu núi rừng mà điển hình là hàng vạn cây thông lão đã ươm mầm và mọc lên ở Phương Bối nó đều như nhau.
Lão ở Phương Bối đã đốt lên ngọn lửa thiêng để rồi rực cháy trên đồi tịch mịch. Nó khiến cho người ta có cảm giác rằng khi đã không còn những ham muốn lẽ thường, những thị phi thế tục thì cuộc quay về để dạo chơi chỉ là bước phiêu bồng mà một khi trót lỡ mang trên vai mình sứ mạng văn chương, và nói theo kiểu Bùi Giáng là " Thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn và sẽ chết đi giữa cây cỏ gây cấn ly kỳ”.
Chắc chắn lão sẽ chẳng thể nào chấp nhận câu nói của họ Bùi. Đừng hỏi lão là vì sao? Lão chẳng bao giờ thèm trả lời lại. Thử nghe những lời này của lão..." với tôi, thông với thơ là một.Trong núi thơ có đồi thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là núi thơ."
Bạn thử tưởng tượng gần 30ha đồi được trồng toàn cây thông thì nó phải như thế nào? Nó là cả một chuỗi thời gian miệt mài và không ngừng nghỉ của niềm đam mê dữ dội. Ngay cả việc ươm trồng những cây thông con thôi cũng đủ thấy nó kinh khủng như thế nào, rồi phải trồng trọt, bảo vệ nó thoát khỏi những bàn tay chặt phá vô tội vạ đang ngày đêm rình rập. Lão và cô Phượng cùng các con của mình có thể nói đã tận hiến cho thiên nhiên. Hôm tôi trò chuyện với cô Phượng trong lúc cô ăn cơm tôi có nói đùa rằng: Đại gia mà ăn uống khổ hạnh thế sao cô? Cô tròn mắt ngạc nhiên với hai tiếng "đại gia". Bởi nó lạ lẫm quá chăng? Cả cuộc đời lão và cô sống với núi rừng, nào có mảy may nghĩ đến chuyện tiền bạc bào giờ đâu. Thức ăn chính đều từ những rau cỏ quanh nhà, quanh đi quẩn lại vẫn là công việc trồng thông, nhưng chưa bao giờ có suy nghĩ thu lợi. Lúc đó chính là tôi cảm nhận vẻ đẹp rõ rệt nhất về cô qua khuôn mặt khắc khổ, già nua kia và cảm thấy khâm phục lão tận cùng. Họ giống như "tỉ phú không tiền". Đó chẳng phải là không màng danh lợi, phú quí giàu sang và chẳng phải là tận hiến cho tất cả đó sao?
Trưa hôm đó khi từ quán Lối Xưa quay lại. Lão khi ấy đã ngủ trưa và tôi trò chuyện với cô Phượng một hồi thì qua phòng khách nghỉ ngơi. Thật sự lúc đó tôi muốn trò chuyện cùng lão để lắng nghe một cuộc gợi mở về văn chương. Nhưng không muốn làm phiền giấc ngủ trưa của lão, nên đành nằm trên chiếc võng mà đong đưa những suy nghĩ về Phương Bối, về lão với những tính nết quái dị, khác người...
Lão đến cuộc đời này để làm gì vậy? Là dạo chơi, hí lộng hay là để dằn xé, đắp bồi...? Hàng loạt câu hỏi tôi đưa ra để rồi phải suy nghĩ. Tôi muốn gặp lão để đặt nhiều câu hỏi, nhưng khi đến nơi thì lại không muốn hỏi nữa. Tôi thấy chẳng cần thiết! Với lão chỉ cần lắng nghe lão trò chuyện tự động mình sẽ suy nghĩ và có câu trả lời cho riêng mình. Lão có một cái gì đó rất mâu thuẫn ngay chính con người lão, mà ngay cả lão cũng không giải thích được huống chi người khác? Tất cả là phỏng đoán, là mơ hồ, là là trong những hằng hà sa số...
Đôi lúc thấy lão cô tịch như đền đài, lặng lẽ tựa hồ thu, rồi có lúc thấy lão ầm ầm như sóng biển sẵn sàng cuốn phăng đi mọi thứ và băng băng như con tàu lao về phía trước. Những phút giây đó thoắt ẩn, thoắt hiện qua từng sát na. Lão tín ngưỡng đạo Phật vô cùng, đặc biệt là khi nói về Thích Ca, nhưng lại không mấy ưa các sư, thầy. Lão nói với tôi " Thích Ca đã cứu nhân loại khỏi sự diệt vong" rồi trầm ngâm đăm chiêu, diệu vợi giống như nhập Thiền. Nhưng chỉ là vài giây phút thôi, rồi bắt đầu một chuỗi văng tục lai láng. Ở trong lão máu " du côn" dường như lúc nào cũng chực chờ để phát tiết. Nhưng phải hiểu rằng đó là thứ máu "du côn" cửa miệng. Lão chưa hề làm tổn thương ai bằng một hành động nào mặc dù luôn miệng thích nói "đánh lộn chơi". Lão thích ăn nói theo kiểu ngang tàng như vậy, nó giống như mấy câu thơ của lão trong tập Tịnh Khâu:
Kiếp trước ta là du đãng
Kiếp này ta đi lảng vảng
Bên cầu tử sinh lỗ tai nghễnh ngãng
Tôi nghĩ đó cũng là một nét hào sảng có phần khí khái đôi lúc pha chút trịch thượng của lão. Lão kể tôi nghe có lần một phái đoàn Phật giáo đâu đó ghé đến nhà tìm con trai lão (con lão xuất gia làm hòa thượng). Lão giới thiệu lão là cha, có gì cứ nói cho lão nghe. Nhưng mọi người thì muốn gặp con lão. Lão liền ngăn cản lại không cho gặp rồi nói với giọng kiên quyết " Các ông bước đến nữa là tôi tự tử chết cho coi". Mọi người thấy có vẻ gay go và có vài người tỏ ra bực bội. Thấy vậy lão liền nói mấy ông cho tôi nói một câu thôi. Mọi người mới hỏi ông muốn nói gì? Lão mới thủng thỉnh đáp " Tôi nhìn mấy ông ,tôi mới biết vì sao gọi là Phật tử...nha ...nha..." Kể xong lão cười đắc ý.
Lão là vậy! chẳng cần bưng bít, bợ đỡ hoặc giả xun xoe ai đó, nó na ná như kiểu của Phùng Quán " yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" nhưng lại không hẳn vậy. Bởi lão có khi yêu lại thích nói ghét, thích chê bai đôi chút...nhưng tuyệt nhiên không có kiểu ghét thì nói là yêu. Có thể lão giống ở Phùng Quán câu cảm thán này: " Có những phút ngã lòng. Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy" .Lão vịn câu thơ thật, những năm dài nơi núi rừng hiu quạnh chẳng phải lão đã viết rồi xé, xé rồi viết, cứ miệt mài lây lất như vậy đó sao?
Thơ ca với lão như là máu thịt là xương tủy là cống hiến cho mai sau. Khi còn trẻ lão đã xác định rồi " tôi nghĩ viết là viết cho mai sau. Hơn nữa nếu tôi biết chắc chắn rằng hằng hằng thế kỷ sau, những cái gì tôi sẽ viết trong đời sẽ không có ai đọc, tôi bỏ viết ngay... " ( Trích từ Phỏng vấn quan niệm sáng tác của Đại học Bách Khoa với Sao Trên Rừng 1961). Cũng như rừng thông ngoài kia của lão. Nó không phải là hôm nay mà nó là mai sau...
về đây say với trăng ngàn
phiêu diêu hồn ngập giấc vàng đó em
trăm năm bóng lửng qua thềm
nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi
mai kia tắt lửa mặt trời
chuyện linh hồn với luân hồi có không
thái hư chừng sắp chuyển vòng
đại dương tràn kéo núi đồng tan đi
chúng ta chờ ước mong gì
văn minh gửi cát bụi về mai sau..
Lão không tin vào một ai nên lúc nào cũng sẵn sàng ở trong tư thế cô độc. Có trí nhớ dai nhách nên luôn luôn phải đối diện để chất vấn. Điều này khiến lão rất khổ sở cho nên lão tìm đến thiên nhiên để xoa dịu, làm lành với nó cho nguôi ngoai cơn bực dọc chăng? Có lẽ trước thiên nhiên lão thấy mình nhỏ bé lại. Đó là lúc lão yếu mềm nhất...
"một ngày đau khổ chín trong tôi
tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
cây thả trái sầu trên nước lắng
mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi"
Hoặc có thể là...
hồn tôi cây cối liên hoan
rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
tuổi vàng suối mộng trời thơ
lớn lên tôi chết trên bờ hư không.
Còn rất nhiều nhiều nữa không thể nói hết được, đối với lão phải là là sống bằng ngọn lửa Tịch mịch và hơi lạnh Thiên thu.
Bửu Ý đã khắc họa lão khá đầy đủ : " là hình ảnh của con tê giác, từ tính tình đến cách ăn nói, dáng đi. Húc bừa về phía trước, không kể thiệt hơn, không tính hậu quả. Thêm thù và bớt bạn. Đơn độc quắt queo. Dã man nghiệt ngã. Chỉ thong dong ở chốn không người: rừng và biển." Nhưng lão chưa hẳn đã thừa nhận. Vậy mới là tính cách của lão, ngang ngược và thẳng thừng đến thô lỗ. Với lão thì nếu thích làm thơ thì cứ làm, thích đái thì cứ đái thôi...chả phải lăn tăn rách việc.
Hôm mới gặp tôi lão lần đầu sau một hồi trò chuyện tôi mới đọc vài câu thơ của lão, nhưng lúc ấy tự nhiên lúng túng sao lại quên mất vài từ. Chúng ta hẳn nhận ra là thơ ca mà chỉ cần sai một từ thôi đã mất hẳn ý nghĩa thực của nó. Tôi nhớ, lúc đó tôi nói: " Năm mười bốn em cởi quần ra đái". Lão mắng ầm lên " Ông đọc tầm bậy"...Tôi đành cười xòa để che dấu cái sự mắc cỡ mà nói rằng : " Vậy ông ngon đọc đi...". Lão mới ngân nga...
"Năm mười bốn có lần anh ngó thấy
Em cởi truồng ngoe nguẩy cuối vườn trăng
Hồn thảo dã trong đêm vừa thức dậy
Khắp bầu trời ướt mượt cả lông măng"
Thú thật tôi không mê thơ của lão nhiều lắm. Nhưng ở lão, tôi có sự thích thú riêng mà tôi nghĩ không phải ai cũng có. Đó chính là nó dung tục và trần trụi đến tê điếng trong từng câu chữ. Tôi nghĩ vào thời điểm đó, những năm 60 mà lão đã có những câu thơ như thế, những câu như..." Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu ngồi/ em chưa đái mà hồn anh đã ướt" nếu nói theo kiểu bây giờ thì rất là " hoành tráng". Sau lão mấy chục năm và sự va chạm ào ạt của công nghệ truyền thông. Đặc biệt là nề nếp " phong kiến" đã không còn khắc khe như trước, gần như đã cởi mở được lớp dây trói buộc về văn hóa. Mọi người đã quen dần và cũng đã chấp nhận nó là một thứ đã và đang tồn tại song hành trong văn chương hiện đại, thì vào thời điểm đó quả là một vấn đề rất ghê gớm. Hôm nay nghe những Vy Thùy Linh hay gì gì đó lãi nhãi và nhai đi nhai lại những thứ ấy thành thứ đặc sản mà tôi bật cười. Chẳng phải lão đã đi trước bọn họ chừng mấy chục năm đó sao? Nhưng những thứ được cho là dung tục của lão còn khoác lên tấm áo mỹ miều của ngôn ngữ chứ không cằn cỗi. Tôi hình dung nó giống như bức tranh khỏa thân vậy, tuy thật sự nó lộ liễu nhưng vẫn có nét đẹp mê hồn. Và đó đã bắt đầu hình thành và khẳng định tính cách của lão, là một cuộc dấn thân, là một sự chấp nhận búa rìu dư luận thời đó. Nhưng nào có đè bẹp được lão đâu? Điều đó cho thấy sự gai góc của lão cũng đã vượt qua khỏi người thường. Cho đến bây giờ khi "trà dư tửu hậu" cùng lão. Nếu ai mong muốn lão nói một điều gì đó êm tai thì thật viễn vông, phù phiếm. Tôi may mắn được lão đãi ngộ và "ban ơn mưa móc" bằng hàng loạt Cờ Lờ Đờ Mờ. Nhưng thú thật là tôi thấy đã, đã chi lạ. Quá hả hê và sung sướng...
Trong vài câu chuyện được nghe lão kể lại, tôi đã thấy những nét ngang bướng đến thẳng thừng của lão. Theo lời lão kể lại rằng; thời đó Phạm Duy có đến chơi với lão và có ý định phổ nhạc mấy bài thơ của lão nhưng lão không chịu. Lão nói với tôi với giọng ngùi ngùi " khi đó tôi đói lắm, nếu chỉ cần Phạm Duy phổ nhạc thì tôi sẽ nổi tiếng và sẽ bớt khổ hơn. Nhưng tôi không chịu!" . Hay như chuyện về vị giáo sư nọ thấy lão có tài, có ý định mời lão về dạy học ở một trường đại học lúc bấy giờ. Lúc ấy thấy lão đi ngang quán cà phê. Vị giáo sư nọ đang ngồi trong đó bằng gọi lão vô và đưa cho lão một cọc tiền rồi nói ý định của mình. Lão lắc đầu không nhận lời. Lão nói rằng " Thà ông kêu tôi dạy Toán, Lý...hay cái gì đó tôi còn về kiểm tra sách vở lại để mà dạy. Chứ riêng văn học thì tôi không thể nào! Bởi nó không phải là thứ để dạy cho người ta hiểu rõ ràng, không phải là bất kỳ ai làm văn thơ hay là đều có thể dạy tốt được...". Thế đấy! Một khi mà lão không thích thì cho dù bất kỳ hoàn cảnh nào lão cũng không bao giờ chấp nhận.
Lão thường xuyên tiếp khách, những người khách lạ quen đủ cả. Nếu như khách tìm đến hỏi lão về Thơ thì lão thích nói về những cây thông hơn, kể chuyện lão trồng thông và gìn giữ nó như thế nào. Thế nhưng khi viết bài mà ca ngợi lão trồng thông thì lão phàn nàn và không thích thú. Lão nói "tụi nó toàn viết về thông chứ có viết về thơ tôi đâu" Thật lạ lùng như thế. Rất mâu thuẫn...Nhưng nếu viết về thơ lão thì lão đau đớn kêu lên:
Ôi thôi mắc tội tày đình
Ngàn năm cái giống phê bình thơ ca
Hồn không bằng chiếc lá đa
Múa may chữ nghĩa làm cha tôi kìa!
Những suy nghĩ như thế cứ trôi dài đi, chiều xuống thật nhanh từ lúc nào mà tôi không hay. Tôi qua phòng lão thì không thấy lão nằm đó nữa, vội lấy điện thoại ra alo thì nghe bên kia lão nói "tôi đang có chuyện một chút nha...nha...". Một mình ngồi nhìn những cây thông đang chen lấn nhau phía trước mặt. Bất giác tôi thầm thỉ với chính mình rằng đây là thơ của lão chăng? Là đứa con tinh thần vô giá mà lão đã đổ bao nhiêu công sức và có cả máu xuống đó chăng? Những câu thơ trên trang giấy tựa như những phấn thông đang tràn ngập nơi này? Là những giọt máu trên đồi biết trổ bông.
Rồi lại nhìn những biến đổi của thời tiết nơi này chẳng khác gì lão. Nó mơn man đó rồi lại buồn thẳm sâu hun hút...Bạn nhìn những bức hình này sẽ thấy nó thay đổi qua từng sát na:
Ánh nắng vừa khẽ lướt qua rồi biến mất chỉ trong hai lần bấm máy liên tục từ chiếc máy ảnh. Rất nhanh đến bất ngờ như đang dự báo một điều gì đó sắp thay đổi...
Tiếng gậy lộc cộc của lão vang lên từ phía sau núi đang rõ dần. Lão chậm rãi ngang qua thềm nhà và nói " Ông về đi...nha...nha...Trời sắp mưa lớn lắm rồi...nha nha...Ông về không kịp thì tối công an đến hỏi tôi và làm khó cho tôi lắm...nha nha...". Tôi bật cười gật đầu và im lặng không nói gì, nhìn lão đang lò dò chống gậy lên đồi tìm cô Phượng.
Trời bây giờ đen kịt lại, bác xe ôm cũng đã đến rước tôi...Chạy vội ra xe và nhìn lên đồi Phương Bối. Hình ảnh lão chống gậy đi lên, bóng dáng cô Phượng từ phía sau núi chạy vào nhà...Tôi đưa tay vẫy vẫy và chào tạm biệt. Có gì đó thật miên man quá. Sau phút hội ngộ là một cuộc chia tay. Lão lại tiếp tục về với thế giới riêng của lão. Thế giới tịch mịch và hơi lạnh thiên thu... Tôi về lại với tôi, với tháng ngày lăn lóc mưu sinh thực tại. Cảm giác chua chua, nghẹn nghẹn lại trào dâng.
Tạm biệt Phương Bối - Tạm biệt B,lao của muôn vàn cảm xúc.
Hẹn với lão một buổi trở lại và ăn hại hơn xưa.
The end *
**
Bonus
Và mấy câu thơ tôi dành cho lão:
mai đây hỡi người về nơi gió bụi
có còn không?buổi sơ ngộ đầu trăng
ai sẽ tưới giọt sầu trên vũng lắng
hồn thơ bay chấp chới giữa muôn trùng!?
Lanhdien ngày Ba tháng Bảy năm Hai Ngàn Không Trăm Mười Ba
RE: Nhật ký B'Lao - Agift - 27-08-2013
Tuyệt vời
|