Thi Ẩm Lâu
Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - Phiên bản có thể in

+- Thi Ẩm Lâu (https://thiamlau.com/forum)
+-- Diễn đàn: Tửu Lầu (https://thiamlau.com/forum/forum-5.html)
+--- Diễn đàn: Phiếm Luận Đường (https://thiamlau.com/forum/forum-14.html)
+--- Chủ đề: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) (/thread-1564.html)



Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

Nghiêng sang em tôi thấy nắng vàng(“Gần như niềm tuyệt vọng”, TCS)

[Hình: ChanDungTCS.jpg]
TCS - Bùi Quang Ngọc vẽ

Làm gì có chuyện ảo. Làm sao biết ảo hay không ảo? Làm sao em biết bia đá không đau? Làm sao em biết đời sống buồn tênh? Làm sao... mà trả lời.

Ảo, nghĩa là không thực. Những gì thuộc về “ảo” đều là... ảo cả, ảo vọng tuổi trẻ, ảo tưởng hòa bình, ảo ảnh cuộc đời... vân vân. Tôi không rõ là ngày trước, khi viết về một hiện tượng, một tiếng hát, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã phát giác được cái “ảo” từ những góc nhìn nào. Khuôn mặt liêu trai, mái tóc liêu trai, vóc dáng liêu trai, giọng hát liêu trai, tất cả hiện ra dưới ánh đèn mầu... liêu trai mờ ảo của phòng trà, đủ để tạo nên một “Ảo ảnh Thanh Thúy”?

Khác với ảo ảnh, thường là những tìm kiếm, đuổi bắt (tìm nhưng không gặp được, đuổi nhưng không bắt được, như vũng nước trong sa mạc, như những bong bóng xà-phòng nhiều màu sắc, như chiếc bóng của mỗi người...), ảo giác ở ngay trong đầu, không phải tìm kiếm đâu xa, ẩn nấp sẵn đâu đó, có dịp là xuất đầu lộ diện. Ảo giác có khi là tưởng tượng, có khi là đóng kịch, là giả vờ, là bị đánh lừa hay tự đánh lừa, là tưởng vậy mà... không phải vậy, khiến dẫn đến những lầm lạc trong nhận thức, chẳng còn biết đâu là thực là giả.

Đọc một cuốn sách, xem một bức tranh, nghe một bài nhạc..., đôi khi trong thưởng ngoạn nghệ thuật,ảo giác cũng thấp thoáng, chập chờn. Trường hợp Trịnh Công Sơn (TCS) là một ví dụ.

A. Ảo giác ngôn ngữ TCS
1. Thật và giả

Ảo giác, trước hết đến từ chữ nghĩa TCS.

Toàn bộ âm nhạc TCS đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực...” (1), nhận xét này của nhạc sĩ Phạm Duy quả có đúng, mặc dầu không phải tranh trừu tượng lúc nào cũng đẹp cả. Gọi nhạc TCS là“nhạc... trừu tượng” cũng không sai. Chỉ là chuyện chữ nghĩa (“thơ cụ thể”, chẳng hạn). Trừu tượng,nên cần phải vận dụng ít nhiều trí tưởng tượng mới nhìn ra cái đẹp. Hình tượng người nữ trong lời nhạcTCS chẳng hạn:

Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai…

Vai em gầy guộc nhỏ...

Bàn tay xanh xao đón ưu phiền…

Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…

Em gầy ngón dài…

Ngón tay em dài nên mãi ru thêm ngàn năm…


Cái đẹp này dường như không được bình thường lắm, có vẻ bệnh hoạn nữa là khác, vì gầy guộc quá,xanh xao quá. Cái đẹp thật mỏng manh, dễ vỡ...

Thế nhưng làm sao biết là đẹp? Có chắc là đẹp? Ai nói đẹp? Chắc không phải TCS. Ông không hề nói xấu, nói đẹp chi cả. Ông chỉ mô tả sơ sài, qua loa, đại khái là như vậy, ai muốn hiểu sao thì hiểu.Vậy thì đẹp, xấu chỉ là do ta nghĩ, ta tưởng tượng ra đấy thôi. Phải đẹp chứ, có hình tượng người nữnào ở trong thơ, trong nhạc mà lại không đẹp. Thử hình dung cái đẹp “kiểu TCS”. Xem nào, “đôi vai lụa mát” chắc phải... mát rượi! “Đôi môi lửa cháy” chắc phải... bốc lửa! “Da thơm quả ngọt” chắc phải... ngọt lắm, thơm lắm! “Mi cong cỏ mượt” chắc phải... mượt lắm, cong lắm! Không đẹp sao được.Thực ra, bức tranh toàn cảnh trong nhạc TCS không hoàn toàn là trừu tượng. Nếu chỉ thuần là tranh trừu tượng, khó lòng giữ chân người xem lâu được. Khách xem tranh sẽ bỏ đi thôi. Điều khiến người xem chịu dừng lại ngắm nghía và trầm trồ trước họa phẩm của TCS chính là vì những tranh ấy không phải lúc nào cũng trừu tượng hay siêu thực. Chỉ đôi ba chỗ thôi, chẳng hạn:

Tim lăn trên đường mòn..., hoặc

Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi..., hoặc

Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô..., hoặc

Dòng nước mắt sẽ bay trong trời

làm cơn mưa rớt trên chăn gối

lời cỏ cây hát trên da người


Còn lại là những chỗ người nghe nhạc, xem tranh đều có thể hiểu được. Cái thu hút trong lời nhạc TCS là những chỗ hiểu được và không hiểu được xen lẫn vào nhau, nằm cạnh nhau. Hiểu hết, hiểu dễ dàng thì đâu còn muốn nghe thêm nữa. Bài hát dù có hay ho, có mùi mẫn tới đâu cũng dễ trở thành cũ, vì mọi câu hỏi đều đã được trả lời, mọi chuyện đều đã được giải quyết xong, giống như là “Thôi là hết/chia ly từ đây” (“Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”, Lam Phương) vậy. Ở lời nhạc (hay “ca từ”, như cách gọi ở trong nước) TCS, những vấn nạn vẫn còn nguyên trạng, chưa có lời giải đáp, không có câu trả lời,vì vậy nghe đi nghe lại mà vẫn cứ “mới”, vẫn ít thấy nhàm chán, vẫn muốn nghe nữa, nghe nữa...

Tôi là ai mà còn trần gian thế?

Tôi là ai mà yêu quá đời này?

Tôi là ai / là ai / là ai...???

Những câu hỏi cứ dấy lên mỗi ngày, cứ đeo đẳng theo ta mãi một đời.

Trở lại với những bức họa trừu tượng, TCS đã lấy gì để vẽ nên những tranh ấy? Chỉ là chữ và nghĩa,không có bất kỳ một chất liệu nào khác. Thử xét qua một ít từ loại, những danh từ, động từ, tính từ...được sử dụng qua bàn tay phù phép của TCS.

Động từ chẳng hạn, thử lấy chữ nào đó TCS vẫn hay dùng, ví dụ chữ “phơi”:

Môi nào hãy còn thơm / cho ta phơi cuộc tình
(“Ru ta ngậm ngùi”)

Chưa nghe nói có ai đem tình ra phơi như phơi áo bao giờ. Phơi chỗ nào? Phơi trên cánh môi thơm chứ còn ở đâu nữa! Đem tình ra phơi cho khô ráo đã là chuyện lạ. Phơi thế nào mà tình không khô mà nắng lại... khô mới lạ hơn nữa:

Phơi tình cho nắng khô mau
(“Tình xót xa vừa”)

Lại có khi là “nắng phơi” chứ không phải “phơi nắng”:

Nắng phơi trên mầu ngói non tươi
(“Chiều trên quê hương tôi”)

Những động từ khác:

Treo: “Treo tình trên chiếc đinh không” (Chưa thấy ai mắc, máng, treo cuộc tình bao giờ)

Khoác: “Sương khoác mềm vai phố” (Như là khoác vai tình nhân...)

Lùa: “Lùa nắng cho buồn vào tóc em” (Chỉ thua “Bầy chim lùa vạt nắng” của nhạc sĩ Nguyễn Hiền)

Mưa: “Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ” (Chỉ thua“Mơ hồ nghe lá thu mưa” của nhạc sĩ Cung Tiến)

Nhặt: “Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy” (“Nhặt” đã khó, “giữ” càng khó hơn. Chỉ thua “Nhốt gió” củanhà văn Bình Nguyên Lộc)

Lăn: “Tim lăn trên đường mòn” (Nghe như là phim... kinh dị)

Đổ: “Đêm đổ xuống đời ta

Trói: “Trong lòng phố mưa đêm trói chân

Nghe: “Có con đường nằm nghe nắng mưa

Ươm: “Trời ươm nắng cho mây hồng

Thắp: “Ngàn cây thắp nến lên hai hàng

Khắc: “Vết buồn khắc trên da

Chở: “Có con đò chở nắng mưa đi

Chờ: “Tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi

Người nghe TCS có thể nhặt thêm được rất nhiều động từ như vậy. Các động từ trên là cũ chứ đâu có mới, nhưng lại chở theo sau những ý tưởng, những hình ảnh mới mẻ nên ta tưởng như chúng “mới mẻ”. Những động từ ấy, thả ra từ ống tay áo của TCS, trở nên linh hoạt hơn, có sức sống hơn, bắt trí tưởng tượng làm việc nhiều hơn, vì vậy cũng dễ tạo nên những ảo giác.

Về tính từ, cũng đâu có kém. Chỉ “nắng” và “gió” thôi cũng đã chở theo rất nhiều tính từ (và các từ loại dùng như tính từ): “nắng mềm”, “nắng khuya”, “nắng hững hờ”, “nắng quạnh hiu”, “nắng chiều quạnh quẽ”, “nắng rất la đà”; “gió vô tình”, “gió vô thường”, “ngọn gió hư vô”, “ngọn gió hư hao”,“ngọn gió hoang vu”, “ngọn gió quạnh hiu”, “gió mùa thu rất ân cần”... Cũng phải kể thêm những danh từ được cho làm tính từ: “đời cơm áo”, “tay rong rêu”, “nắng thủy tinh” (nguyên là “ngôn ngữ thơ” của Thanh Tâm Tuyền), “con đường lứa đôi”, “em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”, “tôi là ai mà còn trần gian thế”...

Về danh từ, kể sao cho hết. Khi ông nói đến dòng sông, con đường, hoa cỏ, chim muông, đấy khôngcòn là dòng sông, là con đường... hiểu theo nghĩa thông thường. Con sông không còn là con sông, con đường không còn là con đường. Những vật thể, hình tượng ấy đều vừa có thực vừa không có thực, đều nửa thực nửa giả hoặc chỉ là những khái niệm trừu tượng.

Dòng sông” chẳng hạn, là biểu tượng của dòng đời, dòng chảy của thời gian. Dòng sông trong lời nhạc TCS còn gợi lên những ý niệm về nỗi chia lìa, biền biệt, mất tăm, mất hút...

Sông bao lần sông đã ra đi...

Có một dòng sông đã qua đời...

Một dòng sông nước cuốn / một cuộc tình không may...

Tôi như chim ưu phiền / bay về cuối dòng sông...

Dòng sông nào đây? Chẳng có dòng sông nào cả.

“Con đường” chẳng hạn, là biểu tượng của cuộc hành trình, là hướng đi, là sự lựa chọn hay tìm kiếm miệt mài...

[i]Đường nào dìu ta đến cơn say...

Đường về tình tôi có nắng rất la đà...

Người đi tìm mãi suốt con đường...

Em đi bỏ lại con đường...


Con đường nào đây? Chẳng có con đường nào cả. Chỉ nghe là nghe vậy chứ có thấy đường xá, nhà cửagì đâu. Nào có phải là “con đường xưa em đi” hay “con đường tình ta đi” đâu. Làm gì có con đường nào.

“Hoa cỏ” cũng vậy. Khi ông viết về những bông hoa, ta có cảm giác không dễ gì tìm gặp những bông hoa ấy ở ngoài đời.

Đóa hoa hồng vùi quên trong tay...

Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi...

Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời...

Có nụ hồng ngày xưa rớt lại / bên cạnh đời tôi đây...

Từ đó ta là đêm / nở đóa hoa vô thường...


Đóa hoa nào đây? Chẳng có đóa hoa nào cả. Làm gì có chuyện “đóa hoa vô thường”, làm gì có đóa hoa vàng nào “mỏng manh cuối trời”, làm gì có nụ hồng nào “ngày xưa rớt lại bên cạnh đời tôi đây”.

Những lời ấy thật đẹp nên ta tưởng tượng những bông hoa ấy cũng phải đẹp lắm. Kỳ thực, những bông hoa diễm ảo ấy chỉ nở trong những giấc mơ huyền hoặc hay trong những khu vườn ảo giác.

Đâu có riêng gì hoa cỏ, thực vật, đến cả chim muông, động vật cũng đều là... giả tưởng.

Đàn bò vào thành phố / không còn ai hỏi thăm...

Đàn bò bỗng thấy buồn...

Ngựa hồng đã mỏi vó / chết trên đồi quê hương...

Một ngày đầu thu / nghe chân ngựa về chốn xa...

Trong trái tim / con chim đau nằm im...


Liệu có ai chịu tin đàn bò, đàn ngựa, chim chóc ấy là... có thực! Ngựa trong những lời nhạc TCS cũng “ảo”, cũng chập chờn như bầy ngựa trong tranh của các nhà danh họa chuyên vẽ ngựa.

Cũng đâu có riêng gì vạn vật, cỏ cây, đến cả nắng mưa, gió bão cũng không còn được hiểu theo nghĩa bình thường.

Đây là mưa, là bão:

Có mưa quanh chỗ nằm...

Nghe quanh đời mưa bão...

Mưa bay trong ta / bay từng hạt nhỏ...


Đây là nắng, là gió:

Đường về tình tôi có nắng rất la đà...

Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì...


Đến cả thời tiết, mùa màng cũng thuộc về tâm cảnh của con người chứ không còn là của thiên nhiên,đất trời nữa, vì vậy mới có những “ta nghe tình đổi mùa” hay “em đứng lên mùa thu tàn tạ”... Đến cả không gian, thời gian cũng đều là “giả” là “ảo”, vì vậy mới có những “trong ta chiều đã tàn” hay“đêm đổ xuống đời ta”... Liệu có cần phải kể thêm nữa những bầu trời, tinh tú, mặt trăng, mặt trời...Ta thấy em trong tiền kiếp / với mặt trời lẻ loi...

Từ khi em là nguyệt / trong tôi có những mặt trời...

Vườn năm xưa em đã đến / nay trăng quá vô vi...


Trăng thế nào gọi là “trăng vô vi”? Kỳ thực, chẳng có trăng, sao gì cả. Mặt trời rực rỡ, chói lọi, cho những ảo giác về chủ thể, về thông thái, trí tuệ, về siêu nhiên, siêu hình. Bóng trăng lung linh, huyền ảo,gợi những ý niệm về lẽ biến hóa ảo diệu của đất trời.

Đến cả những nỗi buồn cũng là “nỗi buồn ảo giác”, vô cớ, không tên, kiểu “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, hoặc những nỗi đợi chờ mà... không chờ đợi gì cả:

Lòng thật bình yên mà sao buồn thế...

Có một người dường như chờ đợi


thật ra đang ngồi thảnh thơi...

Sau cùng, chẳng có gì hết. Chẳng có dòng sông, chẳng có con đường, chẳng có mặt trời mặt trăng, cũng chẳng có nỗi buồn, chẳng có ai chờ ai đợi...

Chưa hết, ta còn gặp những cách ví von, những “có khi” và “đôi khi”:

Lòng ta có khi mơ hồ / tưởng mình đang là cơn gió...

Đời ta có khi tựa lá cỏ / ngồi hát ca rất tự do...

Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối...

Đôi khi thoáng nghe bước chân về đâu đó của ai...


Hoặc những “nghe” và “thấy”:

Đêm nghe gió tự tình...

Ta nghe nghìn giọt lệ

rớt xuống thành hồ nước long lanh...

Ta thấy em đi quanh từng ngọn nến tắt...

Ta thấy em đang ngồi khóc / khi rừng chiều đổ mưa...

Nghiêng sang em tôi thấy nắng vàng…

Nhiều đêm thấy ta là thác đổ... (Sao không? Nhà văn Võ Phiến cũng từng nghe “Thác đổ sau nhà” vậy.Thác đổ thật, vì… “tỉnh ra có khi còn nghe”).

Tất cả, những trạng thái lửng lơ, lơ lửng “hình như, có lẽ, chắc là, dường như” ấy, những “có khi” và“đôi khi” ấy, những “nghe” và “thấy” ấy, “đôi khi” cũng là những tác nhân gây nên những ảo giác chập chờn, nửa hư nửa thực.

Ngôn ngữ TCS, như vậy, có thể gọi là... “bóng chữ” (nói như nhà thơ Lê Đạt), chứ chẳng phải chữ với nghĩa gì nữa!


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

2. Chữ và nghĩa

Vì là “bóng chữ” nên thứ ngôn ngữ ấy không phải lúc nào cũng dễ hiểu. Thử nêu một, hai ví dụ:

“Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định...,” những dòng chữ ấy trích trong lời tựa của tuyển tập nhạc Kinh Việt Nam, ấn hành năm 1968, viết bằng thủ bút của chính tác giả TCS.

Những lời lẽ thật bí ẩn như là mật mã, như lời sấm truyền tiên tri về vận mạng đất nước, hoặc như câu thần chú làm chìa khóa mở cánh cửa kho tàng bí mật nào đấy. Người đọc ngơ ngác, không hiểu chuyện gì là chuyện gì (mà không dám nói là không hiểu). “Điều gì không thật” là điều gì vậy? Giữa hàng trăm hàng ngàn điều có thật và không thật diễn ra hàng ngày hàng giờ ở quanh đây, làm sao biết được điều nào là điều nào(?). “Lầm lỡ” gì vậy? Ai lầm lỡ? Tại sao lầm lỡ? Lầm lỡ thế nào? (Chắc không phải “Ta yêu em... lầm lỡ” hay là “Tôi đã... lầm đưa em sang đây”). Không thấy nói rõ ràng, cụ thể gì vụ “lầm đường lạc lối” này (hoặc không tiện nói vào thời điểm ấy, nhưng mãi về sau này cũng chẳng nghe ông nói năng, nhắc nhở gì đến nữa). Lại còn “con đường máu xương” nữa, là con đường nào vậy? Chắc không phải “con đường thập giá” mà Đấng cứu thế đã phải vượt qua để cứu chuộc nhân loại? Chắc cũng không phải là “đoạn đường chiến binh”, hay “đại lộ kinh hoàng”, hay con đường mòn “xương trắng Trường Sơn”? “Máu xương” nào, của lính tráng hay của dân thường, của phe ta, phe địch hay phe bạn? Tại sao điều “lầm lỡ” ấy lại “lên đường” và lại còn “phải đi cho trót con đường máu xương”?“Mũi tên vô tri” nào? “Nhiệm kỳ vô định” nào? Tại sao lại “lỗi thời”? Những câu hỏi và câu hỏi…, e đến cả trăm năm sau cũng không chắc người đời đã giải mã nổi!

Những lời lẽ thật mạnh mẽ, đanh thép như một bản cáo trạng, chỉ tiếc rằng ý tưởng lại lấp lửng, mập mờ, nên nhiều lắm chỉ để trang trí cho tập nhạc, chứ khó mà thuyết phục hay “vận động quần chúng”nổi, vì... không dễ hiểu chút nào.

Người ta có thể dễ dàng tìm thấy trên những trang viết của TCS vào thời kỳ ấy, thời kỳ của những phong trào tranh đấu, lên đường xuống đường, những lời lẽ tương tự, lắm lúc hừng hực khí thế, rực lửa đấu tranh, và tất nhiên là không kém phần... bí ẩn. Ngôn ngữ phản kháng cũng có một vẻ “làm dáng”nào đó chăng(?).

Trong một lá thư ông viết năm 1974, gửi cho người bạn cùng “chí hướng”, ta đọc thấy những lời sau:“K. này,... phải chăng hồi chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn tạ nhanh chóng. Khi con người nhận thấy mình không còn gì để bị tước đoạt thêm nữa thì đứng dậy và lên đường. Nếu cần phải ngạc nhiên chỉ là tự hỏi vì sao vận hội mới của nhân dân lại trễ nãi quá vậy...” (2)Người đọc dễ dàng nhận ra cái style của TCS, cũng là những đao to búa lớn của những “hồi chuông báo tử”, “vận hội mới của nhân dân”, “đứng dậy và lên đường”...

Cái style ấy đôi lúc cũng đi vào trong lời nhạc TCS. Không phải ai cũng hiểu được những gì ẩn nấp đằng sau những đường kẻ nhạc và những câu, chữ như là:

Từng lời tà dương là lời mộ địa

Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe
(“Một cõi đi về”)

Thật bí ẩn như những dòng chữ khắc trên vách đá của một hang động bí mật nào đấy. Thật bí ẩn đến độ ngay chính tác giả bài hát cũng... lắc đầu chịu thua, chẳng biết cắt nghĩa ra làm sao! Hỏi, ông trả lời:“Đây là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu, có những câu trong bài này bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật là khó...” (3) Rồi ông đi tới kết luận“huề vốn” theo cách của ông, để khỏi phải giải thích, giải nghĩa chi cả: “Tôi nghĩ, trong nghệ thuật,điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần phải cắt nghĩa gì thêm.” (3)

Không cần phải cắt nghĩa gì thêm”, nói văn vẻ là như vậy, nói nôm na là hiểu được thì tốt mà không hiểu thì... rán mà hiểu. Lý do chính đáng là bản thân ông còn chưa hiểu nổi, còn hiểu chập chờn, thì lấy gì mà đòi hiểu! Điều này cũng cho thấy những ý tưởng ông đưa vào bài nhạc là những ý tưởng chưa rõ nét, chưa ra hình ra dạng, vẫn còn lửng lơ, lơ lửng như “khói trời mênh mông”! Nói khác đi, “bài hát rất lạ” ấy (và nhiều bài khác nữa) chỉ là những bản nháp (draft), những bản vẽ phác thảo. Điều khôi hài là trong lúc ông còn đang loay hoay tìm kiếm, người thưởng thức nhạc của ông cũng... loay hoay tìm kiếm cùng với ông.

Những câu, chữ mà ông gọi là “khó giải thích” có rất nhiều trong lời nhạc TCS, đại loại:

Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều… (“Dấu chân địa đàng”)

(Câu này chắc để... dọa đàn bà, con gái)

Mặt trời như trái cây tuyệt vọng… (“Níu tay nghìn trùng”)

(Trái Cây Đau Khổ tập 2 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ chăng?)

Môi em hồng như lá hư không... (“Gần như niềm tuyệt vọng”)

(“Lá diêu bông” đã khó tìm, “lá hư không” còn... khó hơn!)

Cơn mưa là nắng vô thường... (“Mưa mùa hạ”)

(Cơn nắng có là... mưa vô thường?!)

Có thể kể thêm một chuỗi những “hư” và “vô” như “hư ảo”, “hư vô”, “hư không”, “vô tận”, “vô vi”,“vô thường”... là những từ ông vốn sính dùng, lặp đi lặp lại nhiều lần, đôi lúc có hơi lạm dụng. “Vô thường” ở một vài chỗ thì khả dĩ chấp nhận được, nhưng không phải đặt vào chỗ nào cũng... vô thường được cả (như câu hát ở trên). Cứ như lối dùng chữ kiểu này thì bất luận thứ gì góp mặt góp tiếng trên thế gian này thảy đều “vô thường” cả, và đều có thể ghép vào hai chữ “vô thường” được (mà không sợ... vô nghĩa). Chữ nghĩa cho dù có “sáng tạo” tới đâu cũng không thể tùy tiện ghép ngược ghép xuôi,ghép ngang ghép dọc, muốn ra kiểu nào thì ra.

Hiểu được tường tận từng câu từng chữ trong lời nhạc TCS là điều không thể. Đi tìm những ý tưởng lẩn khuất phía sau những ngôn từ ấy, nghĩa là những “ẩn ngữ” (“behind the lines” hoặc “between thelines”) lại càng khó hơn. Chưa kể đến những “phát minh” lạ lùng trong chữ nghĩa, đôi lúc kỳ quặc, khó hiểu, như “lời buồn thánh”, “vết lăn trầm”, “giọt hư không”, “giọt vô biên”... Lúc đầu người nghe còn thấy lạ tai, riết rồi quen dần, mặc ông nhạc sĩ muốn nói gì thì nói, chẳng mấy ai còn thắc mắc hay bận tâm tìm hiểu. Cũng tựa như ngày trước chẳng ai bận tâm đến chuyện đúng sai, phải trái trong những câu hát quen thuộc, vẫn nghe đi nghe lại:

Mùa thu mưa bay cho tay mềm... (Mưa bay thì... mưa bay, làm sao tay lại mềm được?)

Lùa nắng cho buồn vào tóc em... (“Lùa nắng”, đâu phải chuyện dễ! Nắng thì phải... vui, mưa mới làbuồn chứ!)

Ngày xưa sao lá thu không vàng... (Lá thu ngày xưa, ngày nay gì lại chẳng... vàng!)

Những câu trên ở trong bài “Nắng thủy tinh”. Chẳng có cái “logic” nào cả, chẳng có nghĩa đen nghĩa bóng, nghĩa xa nghĩa gần gì cả, cũng chẳng có phương pháp phân tích lý luận nào để giải thích cho hợp tình hợp lý cả. Chỉ có chịu hay không chịu, thích nghe hay không thích nghe, thế thôi. “Đừng hỏi tại sao”, đấy là cách tốt nhất, hay nhất để mà thưởng thức nhạc TCS.

Trong ngôn ngữ TCS, “chữ” không phải là “nghĩa” (như “chữ nghĩa” nói theo lối thông thường). Chữ là chữ, nghĩa là nghĩa. Chữ và nghĩa không sánh đôi với nhau, không là bạn đồng hành của nhau, vì thế không thể giải thích “chữ” để cho ra “nghĩa”. Nói cách khác, trong “chữ” của TCS, nghĩa cũ (nghĩa thông thường) được nới rộng thêm, hoặc được ghép thêm những nghĩa mới. Nghĩa cũ, nghĩa mới đôi lúc xen lẫn vào nhau. Thường, người nghe nhạc TCS không hiểu hay cảm thấy khó hiểu khi “đụng”phải những nghĩa mới này. Cái nghĩa “mới” ấy làm cho người nghe đôi lúc “khựng” lại. Thế nhưng người ta cũng lại yêu thích ngôn ngữ TCS qua những chữ mới, nghĩa mới này.

Như vậy, TCS không chỉ làm mới “chữ” (như nhiều người vẫn nói), ông còn làm mới “nghĩa” nữa.“Nghĩa” ấy vượt ra khỏi những khuôn khổ, những hàng rào quy ước. Vì vậy mới có những “nắng mềm”, “nắng khuya”, “mưa hồng”, “mưa xanh”, “giọt máu cuồng điên”, “giọt máu trổ bông”, “đôi môi rồ dại”, “đôi vai lụa mát”, “biển rộng hai vai”, “biển hẹp tay người”... vân vân và vân vân. Cách chung,ta có thể nói được là, TCS đã làm mới ngôn ngữ bằng những “phát minh” tân kỳ. Từ đó, ta hiểu được vì sao đôi lúc không thể giải thích hoặc không thể giải thích theo lối thông thường ngôn ngữ TCS.


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

B. Ảo giác thưởng thức nhạc TCS

“Hạnh phúc là một tách café và nhạc TCS.”

Đó là một trong những định nghĩa về hạnh phúc, ghi lại được trong một tuyển tập những bài nhận định về âm nhạc và con người TCS, ấn hành ở Việt nam (Một Cõi Trịnh Công Sơn, nxb Thuận Hóa, 12/2002). Tôi không rõ người nói hay viết câu ấy đã căn cứ vào đâu để đưa ra định nghĩa này. Thực trạng đời sống và sinh hoạt ở trong nước chắc? Bao nhiêu là quán xá lớn, nhỏ ở ngoài đường, trên phố thường xuyên “chơi” nhạc TCS để thu hút khách, để những người khách bước vào đó tìm kiếm chút hạnh phúc.

Hạnh phúc như thế thì cũng đơn giản. Ngồi quán hay ngồi nhà, người ta cũng có thể có được những phút giây trầm tư nhìn từng giọt café chảy từng giọt, từng giọt, trong lúc lắng nghe tiếng nhạc TCS, để suy gẫm chuyện đời, để chiêm nghiệm về cõi sống cõi chết, về phận người phận mình, hay chỉ để ngậm ngùi tiếc thương về một cuộc tình đã mất, và để thấy...

tình đi âm thầm / nghìn trùng như vết sương

tình ngỡ đã phôi pha / nhưng tình vẫn còn đầy

lòng ta trăm con hạc gầy vút bay

ta như con đường dài vắng người

đời mình là những quán không

tôi chợt nhìn ra tôi... / tôi tìm thấy tôi


Tôi tìm thấy tôi”. Như thế không phải là hạnh phúc sao? Khi con người cảm thấy hạnh phúc, đấy là hạnh phúc, dù chỉ phút giây thôi “cũng đủ lãng quên đời”. Âm nhạc TCS, như thế, theo một nghĩa nào đó, vẫn luôn góp mặt trong những sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Ở đây lại gợi mở ra vấn đề khác nữa, âm nhạc và đời sống. Phải chăng, cho dù cuộc sống có nổi trôi, có bôn ba “đời cơm áo”, người ta vẫn không thể quên đi âm nhạc, vẫn không thể sống mà thiếu âm nhạc, vẫn muốn đi tìm chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong âm nhạc.

Nhạc TCS, và café, và khói thuốc, và men bia men rượu,... và tất cả những gì cộng thêm vào, thêm vào, đều có tác dụng làm tăng thêm ảo giác về một hạnh phúc... vô thường.

“Hạnh phúc là một tách café và nhạc TCS”, câu định nghĩa trên có thể đúng theo nghĩa ấy, hay ít ra cũng đúng với những người cùng chia sẻ khoảnh khắc hạnh phúc ấy, cái khoảnh khắc được sống, được làm “người đi trên mây” (nói theo nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng), có nghĩa là được thả trôi bềnh bồng hay đắm chìm trong một màn sương ảo giác.

1. Hiểu hay không hiểu

Đặc điểm nổi bật trong lời nhạc TCS là tính... mơ hồ. Khi hát hay nghe nhạc TCS, chúng ta cho là chúng ta hiểu nhưng đồng thời chúng ta cũng không chắc là chúng ta hiểu. Đôi chỗ hiểu, đôi chỗ không hiểu; đôi lúc hiểu, đôi lúc không hiểu. Hiểu ít hiểu nhiều, hiểu đúng hiểu sai, vừa hiểu lại vừa không hiểu, tất cả cứ lẫn vào nhau nên ta không thể biết chắc là ta hiểu hay không hiểu.

Hiểu như thế nào gọi là hiểu? Hiểu như thế nào là hiểu đúng? Lấy đâu ra câu trả lời. Có khi mỗi người hiểu một cách, chẳng ai giống ai, chẳng biết ai đúng ai sai. Thành thử, hiểu cách nào cũng chỉ là hiểu theo cách riêng của mình, không thể nói người này hiểu đúng, người kia hiểu sai. Nghe nhạc TCS, vì vậy, tưởng khó hiểu mà thành ra dễ hiểu, vì muốn hiểu sao thì hiểu, không hiểu cũng không sao, cũng không cần phải cố gắng để hiểu, miễn cứ thích nghe thích hát, miễn cứ thấy... hay là được!

Không hiểu, hay không hiểu rõ lắm nhưng vẫn làm như hiểu, vẫn làm ra vẻ thông thái, uyên bác như là thông hiểu hết mọi lẽ, mọi chuyện (những vô thường, vô vi, hư vô, hư ảo...). Cái tâm lý ấy khá phổ biến, cũng chẳng khác mấy hiện tượng “làm dáng trí thức” của các chàng sinh viên ở miền Nam một thời, vẫn thích kè kè trên tay những pho sách dày cộm nói về những “mặt trời không bao giờ có thiệt”, những vực sâu và “hố thẳm của tư tưởng” (tương tự “đỉnh cao của trí tuệ”, nói theo ngôn ngữ khoa trương ở trong nước bây giờ), dù có khi chẳng hề đọc lấy một chữ. Nếu có khác, đấy chỉ là một kiểu thời trang, có tính giai đoạn, trong lúc “hiện tượng TCS” kéo dài trường kỳ, nhiều năm, lại phổ biến rộng rãi hơn, không hạn chế trong một giới, một đối tượng nào. Có phải là âm nhạc chiếm ưu thế hơn hay còn do những yếu tố nào khác nữa (?).

Kể ra, không hiểu thì cũng khó mà thấy hay, thấy đẹp, khó mà thấy thích được. Trước hết, cần phải hiểu mới nói chuyện được. Cũng không thể nói “Tôi hiểu mà tôi nói không được”. Nói như thế là vẫn chưa thực sự hiểu, là vẫn chỉ hiểu đại khái, là vẫn còn mơ hồ. Khen hay, phải nói được tại sao hay, hay ở chỗ nào. Chê dở, cũng phải nói được tại sao dở, dở ở chỗ nào. Liệu người ta có thể yêu cái mà người ta không hiểu rõ lắm, không biết rõ là cái gì, và cũng không cần tìm hiểu cho ra lẽ, như yêu tranh lập thể, yêu thơ siêu thực, yêu nhạc giao hưởng, và... nhạc TCS?

“Ca từ TCS”, như chính tác giả thú nhận, “... bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật là khó.” (3)

Thế nghĩa là sao? Người nghe không hiểu, người hát không hiểu, người viết ra những lời ấy cũng... chỉ hiểu mơ mơ màng màng, cũng chẳng biết đằng nào mà giải thích. Vậy thì ai hiểu, ai giải thích được đây? Có lẽ nào cả ba ta (người nghe, người hát, người viết) đều chẳng ai hiểu... ai cả? Đến chỗ này mới thật là... khó hiểu!?

TCS, không khéo ta bị ông chơi khăm mất. Hệt như một người ra câu đố hóc búa, những người khác bấm đầu nặn óc suy nghĩ, sau cùng hoặc chịu thua, hoặc đưa ra những lời giải đoán khác nhau, đến lúc mọi người yêu cầu giải đáp thì người ra câu đố trả lời tỉnh queo “Tôi cũng không biết, tôi cũng... chịu thua”. Thế không phải chơi khăm là gì?

Chưa hết, người viết những “ca từ” ấy còn cho biết là “cần phải có một linh cảm nhạy bén và một vốn kiến thức nhất định” (3) mới có thể hiểu được cái hay, cái đẹp trong những ca khúc TCS. “Tôi gặp không ít người,” ông nói thêm, “dù họ ít học nhưng họ lại thích, hỏi họ có hiểu không thì họ trả lời không hiểu, nhưng họ lại cảm nhận được có một cái gì đó ở bên trong, nên khi nghe hay khi hát lên thì có một điều gì đó chạm đến trái tim của mình...” (3)

Liệu đúng là “có một điều gì đó chạm đến trái tim của mình” hay không, tôi không được rõ lắm, thế nhưng qua lời ông tôi biết được một điều: kẻ “ít học” thì không cách chi hiểu được những lời lẽ ấy. Nhạc TCS, như vậy chỉ dành cho đối tượng có chọn lọc. Kẻ hiểu được và biết thưởng thức phải là đối tượng “học nhiều hiểu rộng". Ở đây lại có vấn đề “trình độ” kiến thức, khiếu thẩm mỹ và thưởng ngoạn nghệ thuật nữa chứ không phải chơi. Từ đó, tâm lý tỏ ra am hiểu (do đóng kịch, giả vờ, tự đánh lừa mình) có phát sinh cũng là chuyện tự nhiên, thường tình. Dần dà, lâu ngày, tâm lý tiềm ẩn ấy phát triển thành một dạng thức mà nhà văn Nguyễn Mộng Giác gọi là “ảo giác của trí tuệ”. Chẳng ai muốn thú nhận cái vốn học ít ỏi của mình, cho dù có… ít ỏi thật. Dẫu không hiểu cũng phải cố làm ra vẻ hiểu. Còn kẻ “học nhiều hiểu rộng” thì lại càng muốn chứng tỏ cái sở học mênh mông của mình, chẳng biết nông sâu cỡ nào nhưng chắc chắn là phải vượt xa tầm hiểu biết hạn hẹp của những kẻ “ít học”...

Thế nhưng, đến khi tác giả TCS “thật thà khai báo” là “viết thì viết vậy” chứ cũng không rõ là... viết cái gì(!), thì kẻ “học ít” lẫn người “học nhiều” đều hụt hẫng, chới với, xính vính, nhất là người “học nhiều”, vì… lỡ bộ. Tưởng ông biết, hóa ra ông trả lời không biết. Tưởng ông hiểu, nào ngờ ông nói ông không hiểu. Kể cũng hơi ác. Ông không hiểu ông thì tôi làm sao hiểu ông được! Giá như ông cứ nhận bừa là ông hiểu đi thì hay biết mấy, khỏi rắc rối, đỡ phiền phức. Tương tự, sau khi triết lý đủ thứ về cuộc sống, về tình yêu, về thân phận con người..., ông kết luận gọn gàng, ngon ơ: “Đường trần... đâu có gì!” (“Phôi pha”).

TCS, ông quả là có máu hài hước, chả thế mà ông vẫn thích đùa nghịch, thích chơi trò nhào lộn, tung hứng chữ nghĩa trong những lời nhạc của mình:

Trong khi ta về lại nhớ ta đi..., hoặc

Em là tôi và tôi cũng là em..., hoặc

Nào có cái chết đầu tiên

đâu có cái chết sau cùng…, hoặc

Còn hai con mắt / khóc người một con

Còn hai con mắt / một con khóc người


Về phía người nghe TCS, điều rõ ràng là, thưởng thức nhạc với tâm lý như đã nói ở trên thì đâu có cần chi… hiểu hay không hiểu.


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

2. Hát sai, hát đúng

[Hình: TCS-V%25C4%2583n+Cao.jpg]
TCS và Văn Cao

Về phía người nghe là như vậy, thế còn phía người hát, người trình diễn thì sao? Cũng chẳng khác bao nhiêu, cũng hiểu đúng hiểu sai, hiểu đại khái, hoặc... không hiểu. Vì vậy mới có không ít trường hợp ca sĩ hát lung tung, thay lời đổi chữ vô tội vạ, trong lúc ra điệu bộ, nhắm mắt nhắm mũi, khoa tay khoa chân trong một cố gắng để diễn tả điều mà người hát có khi... chẳng hiểu chi cả. “Hát thì hát vậy...”, nói theo lối TCS, thì làm sao mà lôi cuốn, mà truyền được cảm xúc cho người nghe. Chuyện hát đúng, hát sai kể ra không hết, có khi chỉ thay đổi, thêm, bớt một chữ thôi cũng làm thay đổi hẳn ý nghĩa câu hát, làm mất đi ít nhiều “chất” TCS, chẳng hạn:

Chữ “mong” trong “Đời ta hết mong điều mới lạ” (“Đêm thấy ta là thác đổ”) được nhiều ca sĩ đổi thành “mang” (... hết mang điều mới lạ). Hai chữ này khác nghĩa chứ đâu phải chỉ khác một nguyên âm. “Mong” (không phải “mang”), đó mới là ngôn ngữ TCS.

Chữ “miệng” trong “Miệng cười khúc khích trên lưng” (“Quỳnh hương”) được nhiều ca sĩ đổi thành “nụ” (nụ cười khúc khích...). “Nụ cười” thì không thể... khúc khích được, và cũng không hình dung được chiếc cằm xinh xắn của cô bé tựa trên lưng chàng trai.

Chữ “em” trong “Em qua công viên mắt em ngây tròn” (“Còn tuổi nào cho em”) được vài ca sĩ đổi thành “nai” (... mắt nai ngây tròn). Mắt nai, mắt phượng, mắt bồ câu không thuộc về ngôn ngữ TCS. Ông có những cách để tả về đôi mắt nai mà không cần phải nói “mắt nai”.

Chữ “vầng” trong “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt” (“Một cõi đi về”) được vài ca sĩ đổi thành “vòng” (... đôi vòng nhật nguyệt). Ở đây là vầng thái dương, vầng trăng, chứ không phải vòng trời đất, vòng càn khôn... Hơn nữa, vầng thì còn “rọi suốt trăm năm...” được chứ vòng thì... chịu.

Trong nhiều trường hợp, chữ hay nhất, “đắt” nhất trong câu bị tráo đổi không thương tiếc, làm hỏng một câu hát (có khi làm hỏng cả một bài hát), khiến người nghe bị “khựng” lại như bất ngờ nhai phải hạt sạn trong lúc đang thưởng thức bữa cơm ngon miệng:

Chữ “phút” trong “Vội vàng thêm những phút yêu người” (“Chiếc lá thu phai”) được nhiều ca sĩ đổi thành “lúc” (“... những lúc yêu người”) làm giảm mất cái hay và ý nghĩa rất nhiều, vì không diễn được cái ý “vội vàng” và “yêu từng... phút, giây”, như muốn chạy đua với chiếc kim thời khắc của tình yêu. Tương tự, chữ “phút” trong “Có chút lệ nhòa trong phút hôn nhau” (“Bay đi thầm lặng”) cũng không thể đổi thành “lúc” được. “Phút” (không phải “lúc”), đó mới là ngôn ngữ TCS.

Chữ “suốt” trong “Rọi suốt trăm năm một cõi đi về” (“Một cõi đi về”) được vài ca sĩ đổi thành “xuống” (“rọi xuống trăm năm...”) cũng làm giảm mất cái hay và ý nghĩa rất nhiều (cứ làm như rọi là phải rọi xuống chứ không rọi... lên được). Tương tự, chữ “suốt” trong “… nhìn suốt một mối tình” (“Để gió cuốn đi”) cũng không thể đổi thành “xuống” được. “Suốt” (không phải “xuống”), đó mới là ngôn ngữ TCS.

Nhiều trường hợp khá buồn cười, một ca sĩ hát sai vì quên lời, những ca sĩ khác hát sai theo, riết rồi không ai buồn sửa lại cho đúng. Ví dụ, ca sĩ hát đến câu "Thành phố hoang vu như...” (“Tình xa”) thì không nhớ rõ là “hoang vu như...” thế nào(?), hoặc chỉ nhớ mang máng, bèn hát…bừa “hoang vu như... một lần qua cuộc tình”. Thế là từ đó các ca sĩ khác cũng hát theo như vậy cho... tiện. Có ca sĩ nghe vậy không chịu, bèn... đảo ngược lại, thành ra “... hoang vu như... cuộc tình qua một lần”. Đổi qua đổi lại, sai vẫn cứ sai. Câu đúng là “Thành phố hoang vu như đời mình, như cuộc tình”, chứ không có “đi qua, đi lại”, “một lần, hai lần” chi cả!

Hoặc, một số ca sĩ thích thêm chữ “vùi” vào cuối câu hát “Không có ai đời đời ru anh ngủ...” (“Cho một người vừa nằm xuống”) để trám một nốt nhạc bỏ trống (mà không rõ dụng ý của người nhạc sĩ cố ý chừa một khoảnh khắc yên lặng ở cuối câu nhạc để làm đọng lại cảm xúc, rồi mới chuyển sang ý tiếp “...Mùa mưa tới, trong nghĩa trang này có loài chim thôi”. Hơn nữa, ta nói “ru em ngủ”, “ru anh ngủ”, hoặc “anh ngủ vùi”, “anh ngủ say”, “anh ngủ ngon”..., chứ không nói “ru anh ngủ vùi”, “ru anh ngủ say”, “ru anh ngủ ngon”...

Có trường hợp ca sĩ thay lời đổi chữ trong câu hát vì muốn làm tốt hơn, nhưng vẫn... không tốt hơn được, chẳng hạn ca sĩ hát đến câu “Có khi nắng khuya chưa lên” (“Chiều một mình qua phố”), thấy... không ổn (làm gì có “nắng… khuya” bao giờ), bèn đổi thành “... nắng mưa chưa lên”, nhưng nghe... vẫn không ổn. (Ta nói “nắng lên” chứ không nói “mưa... lên”. “Mưa xuống” thì được).

Lại có những bài nhạc mà “ca từ” được thay đổi tùy hứng, tùy tiện, đến... vô nghĩa.

Đừng tuyệt vọng em ơi, đừng tuyệt vọng! Em là tôi và tôi cũng là em... (“Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”), câu hát ấy được vài ca sĩ đổi thành “... anh ơi, đừng tuyệt vọng! Anh là tôi, và tôi cũng là anh (hay “… và tôi cũng là ai?”). Câu hát vốn khó hiểu lại được làm cho… khó hiểu hơn! (May mà câu dưới chưa được đổi thành “[i]Anh hồn nhiên rồi anh sẽ bình minh...[/i]”). Đã thế, tiết tấu bài nhạc cũng thay đổi (rộn ràng, sôi nổi), đánh mất khí hậu của bài hát là bức tranh ảm đạm của buổi tàn thu. Nội dung bài hát, như tác giả cho biết, là “nỗi lòng của kẻ tuyệt vọng”.

Tôi ơi, đừng tuyệt vọng” không phải dễ hát đâu. Thử nghe kỹ, để ý những nốt nhạc “quạnh quẽ”, “nhè nhẹ”...

Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ

Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên


Không phải chất giọng Huế đố hát được những chỗ này. Chỉ giọng Huế mới nghe ra “quạnh quẽ”, “nhè nhẹ”. Lại còn phải hát thế nào để diễn tả cho được nỗi niềm của kẻ đang mấp mé bên bờ tuyệt vọng.

Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo

Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo


Con diều bay, đó là mảnh linh hồn vật vờ, là cánh lá khô héo úa của mùa thu “rơi rụng giữa mùa đông”.

Về lối trình diễn, thường thì ca sĩ tùy nghi thể hiện, ra điệu bộ, uốn éo, làm duyên làm dáng. Kỹ thuật ngân nga, luyến láy cũng tùy tiện, khi ngẫu hứng có thể bẻ quặt một nốt nhạc, gào rú điên loạn với giọng đớt đớt “đá đa, đá đa đa...” để diễn tả cơn sướng ngất của “tìm nhau trong hạnh phúc vô thường” ở cuối bài “Còn mãi tìm nhau”, như phong cách biểu diễn của một vài ca sĩ ở trong nước. Tất cả, đều là những lối diễn xuất giả tạo, vô hồn.

Chuyện ca sĩ hát sai lời là phổ biến, ở đây người viết không có ý bình phẩm công việc “ca hát ngày tháng cho người mua vui” của người nghệ sĩ mà chỉ qua đó, nêu lên một trong những biểu hiện của lầm lạc trong nhận thức do không hiểu rõ, không hiểu đúng, không hiểu nổi. Thực tế, người hát muốn hát sao cũng được, hát thế nào cũng xong, vì người nghe vốn dễ dãi, ít có để ý chuyện đúng, sai.

(Những câu “hát đúng” kể trên cũng là những câu hát ở “thuở ban đầu” của bài nhạc. Mỗi bài nhạc đều có một “thuở ban đầu”. Đấy là cái thuở người nhạc sĩ đã viết ra bài nhạc ấy, cái thuở người ca sĩ đã hát bài hát ấy lần đầu tiên, cái thuở người ta đã nghe bài hát ấy lần đầu tiên, và đã “yêu” bài hát ấy như yêu mối tình đầu của mình. Tình đầu làm sao quên. Những ai còn giữ được những bản nhạc, dĩa nhạc, băng nhạc của “thuở ban đầu” ấy đều có thể tìm lại được những “dấu vết kỷ niệm” ấy).

Cũng vì ít có để ý, cứ hát là hát, cứ nghe là nghe thôi, nên có những chỗ dễ hiểu mà ít ai chịu hiểu.

Một người bạn hỏi tôi: “‘Một cõi đi về’ là đi về... đâu?”

Thực ra, nghĩa hai chữ “đi về” ở đây không phải như là Đi về đâu hỡi em, khi lòng không chút nắng... (“Đời gọi em biết bao lần”). “[i]Một cõi đi về[/i]” được hiểu và có thể viết lại là “một cõi đi, về” (có dấu phẩy [,] giữa hai chữ “đi” và “về”), có nghĩa là “một cõi đi và về ”. Tương tự, có thể viết lại: “có hai mùa vẫn đi, về” (“Em còn nhớ hay em đã quên”), hoặc “lặng nghe gió đi, về” (“Lời buồn thánh”), hoặc “[i]đi, về một mình tôi[/i]” (“Một ngày như mọi ngày”).

Cũng tương tự, có thể viết lại: “về đây đứng, ngồi” (“Chiếc lá thu phai”), có nghĩa là “về đây hết đứng lại ngồi”. Hoặc “xe, ngựa về ngủ say” (“Một ngày như mọi ngày”), có nghĩa là “xe và ngựa...” (không phải là xe ngựa, xe bò). Hoặc “mười năm tắm, gội” (“Chiếc lá thu phai”), có nghĩa “... tắm và gội”. Hoặc “có con đường nằm nghe nắng, mưa”, và “có con đò chở mưa, nắng đi” (“Em còn nhớ hay em đã quên”) đều có nghĩa “nắng và mưa”.

“Ca từ TCS”, như chính tác giả phát biểu, “thực sự không dễ hiểu”, vì thế, cũng chẳng biết như thế nào gọi là hiểu. Thôi thì hiểu tới đâu hay tới đó, hiểu sao cũng được, không hiểu được cũng... không sao.


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

3. Thơ hay không thơ

Saigon xua tan nghìn dấu lệ

cho em bây giờ mắt tình đưa


Nếu không biết là hai câu trên ở trong một bài hát của TCS (“Hai mươi mùa nắng lạ”), nhiều người dễ tưởng đấy là hai câu thơ. Tôi vẫn thích những câu “thơ” như thế, thỉnh thoảng nhặt được trong lời nhạc TCS, thế nhưng, nói rằng TCS là “nhà thơ” như nhiều người vẫn gọi, tôi lại không mấy tán đồng. “TCS là nhà thơ”, đấy cũng là chuyện “một người nói, nhiều người nói theo”. Nói ông có tâm hồn thơ, hoặc lời nhạc của ông có nhiều chất “thơ”, hoặc nghe rất “thơ” thì ai cũng dễ dàng đồng tình. Phong tặng cho ông nhiều danh hiệu quá, đôi lúc khá dễ dãi, e không nên, vì đặt bên cạnh “nhạc sĩ TCS”, cái “nhãn hiệu” đã trở thành phổ biến và quen thuộc đối với rất nhiều người, những danh hiệu ấy thực sự chẳng mang ý nghĩa gì cả. Khoác thêm cho ông bất cứ danh hiệu nào khác nữa đều không có tác dụng gì nhiều lắm và cũng không làm cho ông nổi tiếng hơn.

(Những lời nhạc của Văn Cao chẳng hạn, những “Bến xuân”, “Thiên thai”, “Suối mơ”... cũng rất “thơ”, rất đẹp, tựa như “Bài thơ bên suối”–tên khác của bài “Suối mơ”–vậy. Không chỉ viết nhạc, người nghệ sĩ tài hoa ấy còn vẽ tranh, còn làm thơ, thế nhưng gọi ông là họa sĩ hay thi sĩ Văn Cao, có khi người ta tưởng nói đến... ông Văn Cao nào khác, vì ông quá nổi tiếng như là một nhạc sĩ).

Nhạc sĩ TCS, thế là đủ. Hoặc, cứ gọi ông là... TCS, không cần phải nhạc sĩ, thi sĩ chi cả, người ta đủ biết ông là ai. Có lẽ ông cũng chỉ muốn như vậy. Không nên bắt ông nhận một lúc đến mấy danh hiệu, ông chẳng thiết tha gì, và cũng chẳng sợ ai giành mất những danh hiệu ấy.

Tất nhiên, ai muốn gọi sao thì gọi, muốn phong cho ông tước hiệu gì thì phong. Hôm nay ông là “thi sĩ”, ngày mai người ta cũng có thể gọi ông là “văn sĩ” (không rõ ngoài “Chú Lộ”, ông có viết thêm truyện ngắn truyện dài nào?), là “họa sĩ” (ông từng vẽ tranh và có triển lãm tranh chung với những người bạn họa sĩ), là “ca sĩ” hay “ca nhạc sĩ” (như có người từng nói “Không ai hát nhạc TCS hay bằng TCS”!), là “triết gia” (ông từng đưa triết học vào âm nhạc, và trông ông cũng có vẻ là một triết nhân lừng khừng), và là... “đạo sĩ” nữa không chừng (trông ông cũng có cốt cách, phong thái của các ông Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư... lắm chứ!).

TCS, trước hết ông phải là một nhạc sĩ, là người viết ca khúc (phản chiến, tình yêu, quê hương, thân phận...). Nếu ông là nhà thơ thực sự thì ta đã thấy những thi phẩm “Thơ TCS tập 1, tập 2...” vân vân bày bán ngoài các tiệm sách, chứ không phải là những ca khúc, những tình khúc TCS. Trời không sinh ra ông để làm thi sĩ, và ông cũng đã chọn con đường sáng tác nhạc chứ không phải sáng tác thơ. Nếu đôi lúc ông có những phút ngẫu hứng mà phóng bút làm thơ hay vẽ tranh thì cũng chỉ là những bước dạo chơi sang khu vườn nhà hàng xóm. Tất nhiên, chẳng ai cấm một nhạc sĩ làm thơ, hoặc một thi sĩ sáng tác nhạc (thực tế, đã có nhiều nhà văn nhà thơ lạc bước sang khu vườn âm nhạc). Người ta gọi TCS là “nhà thơ”, đơn giản chỉ vì trong nhạc ông có “thơ”. Điều này thực ra chưa đủ để ông nhanh chóng biến thành một nhà thơ. Đã có người từng nêu thắc mắc với ông, “Sao nhạc của ông nghe ‘thơ’ quá vậy? Ông có làm thơ bao giờ chưa?” Và ông trả lời, “Đối với tôi, âm nhạc cũng là thi ca. Đôi lúc ngẫu hứng và vui với bạn bè tôi cũng làm thơ. Những bài thơ, tiếng Việt và tiếng Pháp, thường được làm trong quán rượu và thường bị tôi quên đi...” (3)

Hơn thế nữa, đâu có riêng gì TCS, trước ông, ta từng có nhiều nhạc sĩ mà tâm hồn rất thi sĩ và lời nhạc của những vị này cũng rất “thơ” nữa (ai cũng có thể kể tên ra được), nhưng trước sau họ vẫn là nhạc sĩ. Có thể nói, trong mỗi ông nhạc sĩ của chúng ta đều có ít nhiều một ông thi sĩ. Tôi nghĩ cách nói ấy giải thích được chuyện “nhạc” hay “thơ” TCS.

Cho em bây giờ mắt tình đưa

Nghe câu ấy là phải nghe câu hát (chứ không nghe câu thơ) mới “nghe” hết cái hay. Nốt láy mỏng ở chữ “tình” nghe như cái liếc xéo của đuôi mắt thật bén, thật ngọt.

Có chút lệ nhòa trong phút hôn nhau

Có những vực bờ chôn theo tình đầu


Đấy cũng là câu hát. Nếu là câu thơ, “vực bờ” sẽ đổi ra “vực sâu”. Câu hát không đổi được, vì lệ thuộc vào âm vực thấp cao, trầm bổng của nốt nhạc.

Trong lời nhạc TCS, người ta dễ dàng tìm thấy những câu “thơ” rải rác như thế. Thơ lục bát, thơ ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám chữ, và cả thơ... tự do nữa. Có những bài hát đẹp như một bài thơ (“Nắng thủy tinh”, “Như cánh vạc bay”, “Nguyệt ca”, “Đêm thấy ta là thác đổ”, “Xin trả nợ người”, “Ru tình”, “Hai mươi mùa nắng lạ”, “Có một dòng sông đã qua đời”...). Ít “câu thơ” dẫn ra bên dưới gồm cả những câu rất TCS, và... không TCS.

Có khi cả bài hát là một “bài “thơ” mà những chữ cuối trong câu toàn vần “bằng”, nghe ra có một khí hậu rất mênh mang của mùa thu:

Tình như lá bỗng vàng, bỗng xanh

em ra đi như thoáng gió thầm

qua con sông nhớ người đã xa...

Thành phố vẫn nắng vàng, vẫn mưa

cây sang thu lá úa rơi mù
chuyện ngày xưa heo hút trong mơ

(“Tạ ơn”)

Lại có trường hợp, có thể sắp xếp lại thứ tự những câu hát rời rạc trong một bài hát khá đặc biệt để có được một bài thơ... đặc biệt (như là trò chơi sắp chữ):

Im lặng của đêm tôi đã lắng nghe

Im lặng của ngày tôi đã lắng nghe

Im lặng của đời tôi đã lắng nghe

Im lặng thở dài tôi đã lắng nghe

Tôi đã lắng nghe im lặng thở dài

Tôi đã lắng nghe im lặng cuộc tình

Tôi đã lắng nghe im lặng đời mình

Tôi đã lắng nghe im lặng của tôi

(“Tôi đang lắng nghe”)

Những câu dưới đây chắc phải là “thơ”, vì đọc lên (hoặc ngâm nga) nghe hay hơn là... hát:

Người phu quét lá bên đường

quét cả nắng vàng quét cả mùa thu

(“Góp lá mùa xuân”)

Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy

để mắt em cười tựa lá bay


(“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”)

Mùa xuân thay lá mùa đông

để cho chim hót chuyện tình

(“Thành phố mùa xuân”)

Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn

con đường bên sông cỏ lá buồn tênh

Ta về nơi đây tháng năm quá rộng

đường xưa em lại thấp thoáng bàn chân

(“Khói trời mênh mông”)

Còn đây những đêm này

Còn em hãy yêu tôi

Đời đốt nến chia phôi

dù nhớ thương cũng hoài

(“Còn có bao ngày”)

Ru em tình khi nhớ

Ru em tình lúc xa

Ru cho bầy lá nhỏ

Rụng đầy một mùa thu

(“Ru tình”)

Những câu trên là những câu có vẻ “thơ TCS” hơn cả. Trong lúc tranh TCS chịu ảnh hưởng những người bạn họa sĩ của ông, “thơ” của ông cũng đôi lúc chỗ này một chút Bùi Giáng, chỗ kia một chút Phạm Thiên Thư... Thử đọc một đôi câu rất “Bùi Giáng” (một trong những thi sĩ ông hằng ngưỡng mộ):

Em đi bỏ lại con đường

bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em...

Em đi bỏ lại dặm trường

ngàn dâu cố quận muôn trùng nhớ thêm

(“Em đi bỏ lại con đường”)

Cũng “cố quận”, cũng “muôn trùng”, cũng “dặm trường”, cũng “vô thường”, cũng “em đi”, “em về”..., chỉ cần thêm vào những “chuồn chuồn”, “châu chấu”, hoặc “liên tồn”, “lá cồn”, “rớt hột”... là có thể bỏ vào trong một tập thơ nào đó của “trung niên thy sỹ” họ Bùi. Hoặc:

Môi xinh ở đậu người xinh

đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều

(“Ở trọ”)

Những “Thúy Kiều”, “Kim Trọng”, “Quỳnh Như” và... “Kim Cương” nữa đều nằm cả trong thơ Bùi Giáng... Hoặc ít câu lục bát TCS (phỏng dịch từ Hán Tự Hài Cú của Ngô Văn Tạo):

“Bên sông, dấu cũ nhà xưa

những ngày thơ ấu dạ thưa mộng gì”


Những “dạ thưa, thưa rằng...” rất quen thuộc kiểu Bùi Giáng.

“Ồ, thưa em ta thấy mộng không thường”
(“Ly tao”, thơ Bùi Giáng)

Một vài ca khúc TCS cũng mượn ý hoặc phát triển từ câu thơ của thi sĩ nổi tiếng lập dị này. “Con mắt còn lại” chẳng hạn, lấy ý từ câu thơ:

“Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con”


(“Mắt buồn”, thơ Bùi Giáng)

Hoặc, “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng” cũng lấy ý từ một câu thơ khác:

Em bảo rằng, ‘Đừng tuyệt vọng nghe không’”

(“Phụng hiến”, thơ Bùi Giáng)

Những “câu thơ” rải rác trong các bài về đạo, về thiền, như “Nguyệt ca”, “Giọt lệ thiên thu”, “Đóa hoa vô thường”... chẳng hạn, “rằng hay” thì có hay, nhưng “nghe ra” vẫn cứ phảng phất cái hơi hướm Phạm Thiên Thư thế nào.

Khác với nhạc TCS, nếu ông không ký tên vào dưới mỗi bài thơ, mỗi bức tranh thì người ta khó mà biết được rằng đấy là thơ, là tranh TCS. Theo nhận xét của riêng tôi, ngoài âm nhạc, những bài viết ngăn ngắn mà ông gọi là “tạp bút ngẫu hứng” của ông có vẻ mang nhiều dấu ấn TCS hơn là những bức tranh, những bài thơ.

Cái đam mê thứ hai của TCS, sau âm nhạc, là hội họa, chứ không phải thi ca, và nếu bắt ông phải chọn lựa giữa thi và họa, tôi chắc ông chọn làm họa sĩ hơn là thi sĩ, vì hai lẽ: thứ nhất, ông có vẻ gắn bó với thế giới của màu sắc hơn; thứ hai, với cây cọ và trên khung vải, ông được tự do hơn để vẽ ra những giấc mơ mà ông đã không thể hiện được trong âm nhạc. Hơn thế nữa, ông từng có lần nói về những thú tiêu khiển: “Tôi dự định sẽ chia tay với âm nhạc để viết những bài tạp bút ngẫu hứng và vẽ.” (3) Tại sao lại vẽ (chứ không phải làm thơ)? Ông cho biết: “Tôi yêu hội họa cũng như âm nhạc. Có lúc lòng say mê hội họa trong tôi còn vượt hơn cả âm nhạc. Vẽ đối với tôi là một niềm say mê đặc biệt. Đã đụng màu vào toile là không dứt ra được, mầu này kêu gọi mầu khác.” (3) Ông giải thích thêm: “Hội họa là cõi trú thứ hai của tôi bên cạnh cõi trú âm nhạc. Khi ngôn ngữ và âm nhạc bất lực thì màu sắc lên tiếng để an ủi và ru dỗ tôi...” (3)

Sau cùng tôi vẫn nghĩ rằng, cho dù có là thơ, văn, nhạc, họa hay gì gì đi nữa, cho dù người đời có muốn tặng cho ông hay lấy đi của ông những tên tuổi, những danh xưng danh hiệu nào, có muốn gọi ông bằng bất cứ tên gọi nào, trước sau ông vẫn cứ là... TCS, không hơn không kém. Thế thôi.


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

4. Triết lý hay không triết lý


[Hình: TCS%2526Ph%25E1%25BA%25A1mDuy.jpg]
TCS và Phạm Duy

Tôi vốn ưa thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình,” (3) TCS giải thích việc người ta tìm thấy những triết lý ẩn náu trong “ca từ” của ông.

Những triết lý tản mạn được ông “đưa vào những ca khúc của mình” có thể dễ dàng tìm thấy trong một số bài hát, một số câu hát. Những triết lý ấy không mới (nếu không phải cũ kỹ), hoặc nếu có mới chỉ là mới ở cách thể hiện bằng “ngôn ngữ TCS”. Hơn thế nữa, những triết lý ấy hầu hết đều nằm trong những pho sách ở “tàng kinh các” của nhà Phật. Đó là những “triết lý” về số kiếp, về định mệnh, về “sắc sắc không không”, về “lẽ vô thường của đất trời”, hoặc những giáo điều khá phổ biến mà không ai không biết, như “đời là bể khổ trầm luân”, “oán thù nên giải không nên kết”... vân vân. Chính ông cũng thừa nhận: “Phật giáo tác động rất sâu xa trong đời sống tâm linh của tôi. Cái phần siêu hình trong ngôn ngữ của tôi là do ảnh hưởng của Phật giáo... Không hiểu sao, những năm gần đây, tôi thường nghĩ về Phật giáo như là một tôn giáo mang nhiều tính hiện sinh nhất. Bắt đầu bằng chữ sát na, một đơn vị thời gian siêu nhỏ. Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại...” (4) Ông phấn khởi, hồ hởi tìm thấy nơi triết lý nhà Phật con đường giải thoát, và còn hăng hái rủ rê mọi người cùng theo ông đến gõ cửa thiền: “Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn, chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống. (4) Đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người cần phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình. Nó sẽ giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách sống đích thực...” (4)

Thiền, liệu đấy có phải là “một cách sống đích thực”? Ai sẽ trả lời câu hỏi này? Chỉ biết rằng “Hãy cứ vui như mọi ngày”, “Để gió cuốn đi”, “Nguyệt ca”, “Đóa hoa vô thường”, “Giọt lệ thiên thu”... và những bài về sau nữa nghe đẫm hương thiền, trong lúc người viết những ca khúc ấy vẫn còn đang dọ dẫm những bước đầu “khái niệm nhập môn” để phấn đấu trở thành một môn sinh của Thiền. “Tôi đang tập hành Thiền về sự lãng quên,” ông cho biết thêm. “Lãng quên những gì không cần thiết cho đời và cho chính bản thân mình”. (4) Liệu ông còn phải tập tành đến bao lâu, đến mức nào mới gọi là đủ công phu, nội lực để lọt hẳn được vào cánh cửa thiền (không phải chân trong chân ngoài)? Liệu ông có “thiền” nổi, có “lãng quên” nổi, hay rồi cũng chỉ là “quên trong nỗi nhớ” (“Nguyệt ca”) hoặc “tưởng rằng đã quên / nhưng tim yếu mềm...” (“Tưởng rằng đã quên”).

Ông thích “triết lý” về sự sống, về cái chết, về tình yêu, về thân phận con người..., bằng những góp nhặt và vay mượn từ những mảng triết học từ đông sang tây, chỗ này một ít, chỗ kia một ít.

Đời cho ta thế / những sớm tối không đổi thay... (“Đời cho ta thế”), định mệnh chỉ cho ta một quả chanh, hãy vui vẻ đón nhận, hãy vắt lấy nước mà uống. Triết lý “thỏa hiệp với nghịch cảnh” ấy ta nghe đã từ lâu lắm.

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui / Chọn những bông hoa và những nụ cười… (“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”), không phải đợi cho tới lúc những câu hát ấy được ông viết ra, người ta mới thấu hiểu được ý nghĩa của triết lý sống đơn giản ấy. Hạnh phúc ở quanh đây, hạnh phúc thật bình thường, cái “nghệ thuật sống” ấy từng được nhiều người biết đến, có khi còn trước cả ông Lâm Ngữ Đường nữa. Triết lý về nhân sinh ấy được đẩy xa thêm chút nữa thành ra những “Hãy cứ vui chơi cuộc đời” (“Hãy cứ vui như mọi ngày”), “Còn cuộc đời ta cứ vui” (“Để gió cuốn đi”), “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ” (“Mưa hồng”). Đến đây thì những câu hỏi “Tôi là ai mà yêu quá đời này?... / Tôi là ai mà còn trần gian thế?...” (“Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”) bắt đầu được đặt ra... “Tôi là ai?” hoặc “Tôi hiện hữu hay không hiện hữu?”, những vấn nạn đại loại như thế đã có từ nhiều năm trước, khi mà tuổi trẻ ngày ấy mới bước đầu làm quen với những tên tuổi A. Camus, J. P. Sartre. Thế nhưng, đây lại là một kiểu hiện sinh khác, theo như TCS giải thích: “... không phải hiện sinh theo kiểu sống vội sống vàng, mà ở đây, con người sống bình thản trong từng sát na”. (3)

Một trong những lập luận vẫn thường được TCS nhắc đi nhắc lại, như một phát kiến của nhà tư tưởng: “Tôi hát là tôi hiện hữu. Tôi tồn tại cũng có nghĩa là tôi sẽ mất đi. Tôi mất đi nhưng tiếng hát còn ở lại. Tiếng hát còn ở lại cũng có nghĩa là tôi hiện hữu.” (4) Cứ theo lối lập luận ấy, ông đã không thừa nhận là ông “mất đi” sau khi ông... mất. Trước đây, ông vẫn phủ nhận những quy luật về tuổi tác và nhất định “không chịu già”. Nay, ông đứng vào hàng ngũ những người “không chịu chết”, mặc dầu cũng chính ông là người viết “Cát bụi”.

Thử nghe lại “Cát bụi”, một trong những ca khúc khá phổ biến của TCS, mang tính triết lý về thân phận con người (trở thành bài hát chính tiễn đưa ông trong ngày ông “về làm cát bụi”). “Để một mai tôi về làm cát bụi” thì không có gì mới (“cát bụi trở về cát bụi”, ai cũng biết). “Ôi, cát bụi mệt nhoài” thì có mới hơn (mặc dầu trước đó nhiều năm, nhà thơ cũng tên với ông, Nguyễn Đức Sơn, cũng từng nói đến Cát Bụi Mệt Mỏi). “Mệt nhoài” vì những nỗi gian truân, những lao đao giữa cuộc sống, những lận đận của kiếp người... “Ôi, cát bụi tuyệt vời” cũng mới hơn. Thật là tuyệt vời khi rũ sạch nợ trần (hay phủi sạch bụi trần) để lại được hóa thân về làm... cát bụi!

Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi... là “tiếng động” gì vậy? Giữa đời sống cơ hồ bị bủa vây bởi trùng trùng thanh âm, bởi trăm nghìn tiếng động, làm sao biết được tiếng động nào là tiếng động nào? Bao nhiêu người hát, bao nhiêu người nghe, ít có ai đặt câu hỏi. Tiếng động nghe được và không nghe được. Tiếng động có tên và không tên. Có thể là tiếng búa nện đinh trên nắp quan tài. Hoặc, có thể là tiếng động “tích tắc” gõ nhịp đều đặn của chiếc kim đồng hồ, từng ngày từng giờ vận chuyển những vòng lăn của chiếc bánh xe thời gian. Hoặc, có thể là tiếng mưa nhỏ giọt, từng giọt từng giọt trong đầu, như là “có mưa quanh chỗ nằm…” (“Một ngày như mọi ngày”). Hoặc, có thể, có thể..., và còn biết bao nhiêu loại tiếng động khác nữa giữa cuộc sống bộn bề. Thử nghĩ xem, ông nhạc sĩ muốn nói điều gì? Thử nghe qua vài loại tiếng động lạ thường trong những lời nhạc của ông.

Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm
(“Còn có bao ngày”)

Có tiếng tù và hối thúc trong tim
(“Bay đi thầm lặng”)

Một chiều đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa
(“Một cõi đi về”)

Lại còn có cả một bài nhạc (“Nghe tiếng muôn trùng”) nói về đủ thứ đủ loại tiếng động mà chỉ có mỗi mình ông nghe được.

Tiếng động, nỗi ám ảnh thường trực, không nguôi, không dứt, không rời, chính là nỗi ám ảnh về cái chết, về cát bụi, đeo đẳng theo ông mãi một đời.

Tiếng động là ảo giác.

Làm gì có tiếng động nào. Làm gì có triết lý nào. TCS, đôi lúc ta thấy ông như đang loay hoay cố tìm kiếm điều gì đó mới mẻ, nhưng tìm chưa thấy, kiếm chưa gặp, nên vẫn cứ loanh quanh luẩn quẩn, vẫn còn chạy lòng vòng. Trước sau ông vẫn chỉ như một con người suy tưởng (thinker) hơn là một triết gia, dù đôi lúc ông có điệu bộ lừng khừng hoặc trầm tư của một triết nhân.

Khi nghe nhạc TCS là khi ta lên đường cùng với ông, đi tìm kiếm những lời giải đáp, những câu trả lời về thân phận, về tình yêu, về cuộc sống, về cái chết, về đủ mọi vấn nạn trong cõi nhân sinh này. Những câu hỏi đại loại “Tôi là ai, là ai, là ai...?”, hoặc lắm lúc chỉ là những câu hỏi bâng quơ “làm sao, thế nào...?” tưởng như vớ vẩn, lẩm cẩm, “Làm sao em biết bia đá không đau?”, “Làm sao em biết đời sống buồn tênh?” “Làm sao, làm sao...?” Những câu hỏi cứ dấy lên mà không bao giờ có được lời giải đáp. Những câu hỏi “như từng viên đá cuội rót vào lòng biển khơi” (“Tình nhớ”), hoặc theo cách nói của ông, những câu hỏi ném vào hư vô, hư không, hay hư... gì gì đó!

TCS không phải là người đầu tiên “muốn đưa triết học vào những ca khúc”. Trước ông khá lâu, Phạm Duy chẳng hạn, đã có những tâm ca, rồi đạo ca, thiền ca... Về giá trị nghệ thuật, từ “Đóa hoa vô thường” đến những bài phổ thơ Phạm Thiên Thư của Phạm Duy như “Đưa em tìm động hoa vàng”, “Gọi em là đóa hoa sầu” vẫn còn là những khoảng cách. (Tương tự, “Còn mãi tìm nhau” là một cố gắng khác để viết lại “Tìm nhau”, một sáng tác của Phạm Duy, năm 1956. Ở Phạm Duy là “Tìm nhau trong cơn gió”, ở TCS là “Tìm trong gió vô tình.. / tìm trong ngọn gió hư vô”. Ở Phạm Duy là “Tìm nhau khi nắng đổ”, ở TCS là “Tìm trong nắng hững hờ”. Ở Phạm Duy là “Tìm nhau trong mưa bão”, ở TCS là “Tìm khi gió mưa về”. Ở Phạm Duy là “Tìm nhau trong muôn thuở”, ở TCS là “Tìm nhau giữa vô cùng”. Ở Phạm Duy là “Tìm nhau như thiên cổ tìm ngàn thu”, ở TCS là “Tìm xa vắng muôn trùng… / tìm nhau ta hẹn với đời nhau”. Sau hết, ở Phạm Duy là “Gặp nhau / đôi tâm hồn được nghỉ ngơi”, ở TCS là “Tìm nhau trong hạnh phúc vô thường”. Trong lúc Phạm Duy vẫn còn miệt mài “Tìm trong câu thơ cổ / tìm qua tranh tố nữ / tìm...” thì TCS có lẽ đã... thấm mệt nên tạm thời từ bỏ ý định “còn mãi tìm nhau”!...).

Trở lại chuyện triết lý hay không triết lý. Kỳ thực, chẳng có triết lý nào cả, chẳng có triết học nào “đưa vào những ca khúc” như TCS nói. Những triết lý ấy (nói cho có vẻ “triết lý”), thực chất là giáo lý, tiềm ẩn trong tôn giáo; hay nói đúng hơn, là những mảnh vụn triết lý vay mượn, sao chép trong kinh Phật. Những “triết lý” ấy thực sự không xa lạ gì đối với tín đồ Phật giáo, đối với một phật tử thuần thành như TCS. Phật giáo, nói như TCS, đấy là một thứ “triết học siêu thoát”, chứ không hẳn chỉ là một tôn giáo. “Tôi đang cố gắng quên Phật giáo như một tôn giáo,” ông nói, và còn thêm rằng ông không “tìm đến với Phật, mà là trở về với Phật tính trong cõi riêng mình”. (4) Ông gọi đó là “chiếc ngai Phật”. “Tôi ngồi, Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi sẽ tràn ngập Phật”. (4) Càng về cuối đời, hay càng cận kề nỗi tuyệt vọng, người ta càng có khuynh hướng đến gần với tôn giáo, điều này cũng dễ hiểu và cũng giải thích trường hợp TCS. Dù là “tìm đến với Phật” hay “trở về với Phật tính”, dù có muốn “quên Phật giáo như một tôn giáo” thì tôn giáo ấy cũng đã là chỗ dựa, là đôi nạng nhiệm mầu cho ông tựa vào để gắng gượng sống, để có đủ sức chống trả và hóa giải mọi bủa vây nghiệt ngã, hay ít nhất cũng đã vỗ về, trấn an ông, đã ít nhiều tạo cho ông cái ảo giác là ông có thể an nhiên tự tại trong cõi sống đầy hệ lụy này. Tôn giáo là con đường cứu rỗi, là chiếc phao cho kẻ sắp chết đuối là ông bám vào, khi mà sự tuyệt vọng và cái chết là hai nỗi ám ảnh không rời trong những năm tháng cuối đời.

Ông đã nói về tôn giáo của ông như những lời rao giảng về đức tin, về chân lý trong một bài thuyết pháp. Ông đã tin vào tôn giáo như tin vào một thứ triết học siêu thoát. Ông đã tập hành thiền để mong “siêu thoát”, để tìm sự lãng quên, thế nhưng mục đích của hành thiền đâu có phải là để lãng quên.

Chẳng ai tập lãng quên được cả. Ai cũng biết, khi muốn quên là khi lòng còn nhớ; khi muốn “thoát” là chưa dứt nợ trần. Ông không quên, ông chỉ muốn tìm quên; ông chưa thoát, ông chỉ muốn được thoát, và đấy là những điều ông “muốn”, chứ không phải là ông đã đạt được.

Tôn giáo, sau cùng đã cho ông được những gì? Liệu ông có đủ vật liệu (đức tin, sự bền bỉ, lòng quyết tâm) để xây được “ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình”. (4) Đâu cần phải xây dựng những ngôi chùa nguy nga, những đền đài tráng lệ, chỉ cần một cái am nhỏ thôi, tôi nghĩ, với một chút lòng thành, cũng đủ cho ông tìm gặp được chính mình.

Liệu ông có thực sự tin vào những lời rao giảng của chính mình hay chỉ... nửa tin nửa ngờ? Liệu “đức tin” ấy có “cứu” được ông? Chắc không ai có được câu trả lời rõ ràng hơn chính ông: “Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý,” (3) sau cùng ông đã phải thốt lên như vậy. Trong nỗi tuyệt vọng, ông phải lần dò đi gõ từng cánh cửa, kể cả cánh cửa tình yêu để khẩn cầu, Chúa đã bỏ loài người / Phật đã bỏ loài người / Này em, xin cứu một người... (“Này em có nhớ”).

Triết học, sau cùng đã cho ông được những gì? Chắc cũng không ai có được câu trả lời rõ ràng hơn chính ông: “Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ,” (3) ông nói thẳng thừng. Tất cả, những gì ông đã dày công nghiền ngẫm, sục sạo, rốt cuộc đều là giả trá, bịp bợm cả hay sao? “Những luận điệu phỉnh phờ”, khi nói thế, ông cũng đã “triết lý” vậy. Chỉ có điều, triết lý ấy đã ứng dụng cho cả chính ông, đã quay ra phỉnh phờ cả chính ông.

Tôn giáo là triết học hay triết học là tôn giáo? TCS, ông đã đồng hóa hai thứ ấy. Triết học và tôn giáo chỉ là một. Ông đã tìm thấy trong tôn giáo của ông những triết lý đời thường mà ông tin rằng có thể ứng dụng được để cứu rỗi ông, để giúp ông tìm được sự bình ổn trong tâm hồn. Điều đó cũng giải thích vì sao ông đã “muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình”.


RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

5. Nhạc và lời

[Hình: Diem+TranhTCS.jpg]
Diễm - Tranh TCS

Trong một thời gian rất dài, trên bìa của các bản nhạc ấn hành ở hai miền Nam Bắc, bên dưới cái tựa của bài nhạc luôn luôn là hàng chữ “Nhạc và lời”, ghi tên tuổi của tác giả. Trừ một ít trường hợp phổ thơ và phổ lời của người khác, hầu hết nhạc và lời đều cùng một tác giả. Vì là nhạc phẩm (không phải là thi phẩm, họa phẩm...), mọi người đều ngầm hiểu rằng phần nhạc là chính, lời là phụ. (Tất nhiên, nhạc hay và lời cũng hay thì bài nhạc thêm phần giá trị). Trường hợp TCS lại không phải như vậy. Dù là thưởng thức hay bình phẩm về âm nhạc của ông nhạc sĩ này, mọi người có lúc gần như đã quên đi phần “nhạc” để chỉ nói đến “lời”. Tại sao lại như vậy, có điều gì nghịch lý chăng?

Giá trị nghệ thuật của âm nhạc TCS là ở lời hơn là ở nhạc. Nếu tước bỏ phần lời, e chẳng còn gì. Các dĩa nhạc độc tấu, hòa tấu TCS bán lềnh khênh ngoài cửa tiệm, dẫu phần kỹ thuật, nghệ thuật có được chăm chút tới đâu cũng ít được giới yêu nhạc chiếu cố. Người ta “nghe” nhạc TCS là nghe những lời ông nói trong bài nhạc ấy chứ không nghe dạo nhạc, chơi nhạc (trừ một ít bài). Các nhạc sĩ đàn anh của TCS như Phạm Duy, Văn Cao không “chê” nhạc của ông, nhưng không tìm ra chỗ nào để khen. Ông Văn Cao chỉ nói: “[i]Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học tây phương... Những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca, hầu như không thay đổi...[/i]”(5). Ông Phạm Duy thì nói: “Về phần nhạc, toàn thể ca khúc TCS không cầu kỳ, rắc rối, vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản... Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hòa âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này” (1). Hai bậc đàn anh này đều tỏ ra “đàn anh” và tử tế: rộng rãi lời khen, khen chỗ nào đáng khen, chỗ nào không khen được thì cũng... không chê! Cả hai ông đều chỉ nói lướt qua phần “nhạc”, trong lúc đưa ra những lời ngợi khen về phần “lời” (ta hiểu rằng phần nhạc... không có gì để nói nhiều).

“Nhạc điệu đơn giản” và “hầu như không thay đổi” theo lối nhận định trên còn được hiểu là đơn điệu, trùng lặp. Những trùng lặp này dễ dàng tìm thấy ở những câu nhạc của những bài nhạc khác nhau. Tiếng đàn đệm guitar “phừng phừng” trong những băng nhạc mà ta nghe được (thường là Ca Khúc Da Vàng) trong những quán café một thời nào, thường chỉ một điệu duy nhất, rõ ràng là không lấy gì làm hấp dẫn, vậy mà tuổi trẻ ngày ấy vẫn chịu khó ngồi quán hàng giờ để thưởng thức, đủ để thấy cái sức thu hút nằm ở lời ca chứ đâu phải tiếng nhạc.

Những trùng lặp cũng không phải chỉ ở phần nhạc mà còn ở phần lời nữa. Những ý tưởng trong “Một cõi đi về” chẳng hạn, có thể tìm thấy rải rác trong “Một ngày như mọi ngày”, “Lặng lẽ nơi này”, “Giọt lệ thiên thu”...

Trong một số bài TCS, lời ca lấn lướt hẳn nhạc điệu. Có nhiều bài, đọc lời ca thấy hay nhưng khi hát hoặc nghe hát thì lại không nghe ra được cái hay ấy, hoặc cái hay... giảm đi. Trong một bài nhận định trước (Từ “Diễm xưa” đến “Một cõi đi về”), tôi có nêu nhận xét “Lời TCS hay đến mức, ở một đôi bài, nhạc không bắt kịp lời” (nhận xét này được nhiều người chia sẻ) cũng là nằm trong ý này. Đó là những bài mà lời ca “đọc” nghe hay hơn là “hát”, chỉ vì giai điệu tầm thường hoặc lời một đằng nhạc một nẻo, thiếu cân xứng, tự nhiên. Lời có đẹp nhưng nhạc lại không đủ sức nâng, thành thử “nhạc và lời” đều không bay lên được. Kết quả, một số bài hát tuy có hay ở phần lời nhưng lại ít được phổ biến, không đến được với người yêu nhạc.

Lâu nay tôi vẫn không trả lời được rõ ràng mỗi khi có người hỏi “thích bài nào của TCS?”. Thường thì tôi khá lúng túng để tìm tên một bài hát nào đó. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao. Tôi không thích hẳn, thích trọn một bài nào mà chỉ thích đôi ba câu trong những bài hát ấy. Tôi cũng nhận ra cái lối thưởng thức nhạc TCS tương tự ở nhiều người khác chứ chẳng phải riêng tôi. Có vẻ những người yêu nhạc TCS cũng chỉ giữ riêng cho mình một đôi câu trong bài nhạc nào đó của ông, đôi lúc không nhớ nổi cái tên. Thành thử, có khi người ta yêu một bài hát chỉ vì yêu một câu hát, cũng tựa như yêu một cô gái chỉ vì cái má lúm đồng tiền vậy.

Một cô bạn tôi ngày trước nói rằng cô thích câu “Có tôi trong dáng em ngồi trước sân” trong một bài hát nào đấy của TCS mà cô không biết hay không nhớ tên. Mãi sau này tôi mới gặp “Đóa hoa vô thường”, tên bài ấy, và có nghe đâu một vài lần. Mặc dù bài hát có được một vài nhà nghiên cứu âm nhạc ca ngợi về giá trị nghệ thuật, trước sau tôi vẫn không mấy thích, và bài này có vẻ cũng ít được phổ biến, hiểu theo nghĩa ít người chịu hát, chịu nghe, chịu thưởng thức. Tôi chịu “Nguyệt ca” hơn, chịu “[i]Từ khi trăng là nguyệt / đèn thắp sáng trong tôi[/i]” hơn là “Từ đó ta là đêm / nở đóa hoa vô thường”. Cô bạn tôi thì chỉ chọn ra được mỗi một câu trong bài (tôi không chắc là cô thích bài hát hay chỉ thích câu hát ấy, và cô cũng chẳng biết câu ấy hát như thế nào nữa). Vậy là sao? Có thực đấy là bài nhạc hay và có “giá trị nghệ thuật” đúng nghĩa? Những bài giới thiệu, ngợi khen về giá trị và công trình biên soạn một tác phẩm không làm tác phẩm ấy trở thành... tác phẩm hay. Việc thẩm định bao giờ cũng thuộc về phía những người thưởng ngoạn. “Đóa hoa vô thường” khó được đón nhận, tán thưởng vì những cái khó: khó hát, khó diễn tả, khó hiểu, và vì... vô thường quá!

Dường như sở trường của TCS là những ca khúc ngắn, bố cục gọn, hơn là những “trường ca”. Dòng nhạc của ông chỉ quanh quẩn nơi những khúc sông, chưa một lần nào đổ ra biển, chưa một lần nào “Ra khơi / biết mặt trùng dương / biết trời mênh mông / biết đời viễn vông / biết ta hãi hùng...” (“Viễn du”, Phạm Duy). “Đóa hoa vô thường” chỉ là một thử nghiệm. (Thực ra ông cũng đã từng “thử nghiệm” một lần với “Dã tràng ca”, trong thời kỳ đầu sáng tác, nhưng cũng không thành công. Bài hát không phổ biến, ít người biết). Dù đã từng là vận động viên chạy bộ, TCS chỉ quen chạy những quãng ngắn, nay đổi sang chạy đường dài ông dễ bị hụt hơi.

Tôi cũng nhận ra thêm một điều, dường như ít có được bài nhạc nào của TCS gọi là hoàn hảo, hầu như bài nào cũng có một, hai chỗ hỏng, chỗ vụng, khi thì ở lời, khi thì ở nhạc. Những bài nhạc vẫn như một phác thảo, một tác phẩm không toàn bích, một nhan sắc không toàn vẹn, vẫn như thiêu thiếu một cái gì. Được đoạn đầu thì không được đoạn cuối, hay đoạn giữa. Được một, hai câu hay thì lại vấp phải một hai câu vụng... Đôi khi, tôi nghĩ, cũng chính vì cái thiêu thiếu ấy mà người nghe vẫn muốn nghe thêm, vẫn muốn đi tìm, để mong một lúc nào đó sẽ tìm gặp.

Không phải là tác giả TCS không thấy được những khiếm khuyết ấy. Ông cũng thừa nhận, “Bố cục trong âm nhạc tuy chặt chẽ nhưng cũng có những khoảng tưởng như vụng về. Cái vụng về ấy là cố ý như chiếc răng khểnh hoặc nốt ruồi trên khuôn mặt đẹp”. (3) Những vụng về cố ý, đấy chỉ là cách nói để người ta dễ bỏ qua những khiếm khuyết. Ta có thể nhìn thấy những “chiếc răng khểnh hoặc nốt ruồi” ấy nằm rải rác đâu đó trong số những bài nhạc của ông, có khi ở câu hát, có khi ở giai điệu. “Nhớ mùa thu Hà Nội” chẳng hạn, ca khúc sáng tác sau năm bảy mươi lăm, đẹp cả nhạc lẫn lời, và còn là bức họa sinh động có một khí hậu rất Hà Nội. Hà Nội mùa thu / đi giữa mọi người / lòng như thầm hỏi tôi đang nhớ ai(?) / Sẽ có một ngày / trời thu Hà Nội trả lời cho tôi / Sẽ có một ngày / từng con đường nhỏ trả lời cho tôi... Bài hát sẽ là những lời tả tình tả cảnh về một nơi chốn quê hương thật là đẹp, nếu không lọt ở đâu vào câu kết ở phần coda nghe khá... vô duyên và lạc điệu, [i]Mùa thu Hà Nội / nhớ đến một người / để nhớ... mọi người…[/i] (như một cố gắng thêm vào để đi đúng bài bản chính sách “mình vì mọi người, mọi người vì mình”). Chữ “mọi người” lặp lại hai lần một cách cố ý, vừa nói đến cái riêng là phải quay về cái chung ngay để tránh bị “quy chụp” là... lãng mạn tiểu tư sản.

Ví dụ kể trên, là một trong nhiều ví dụ, dẫu có là “nốt ruồi trên khuôn mặt đẹp”, nói như TCS, chắc không phải là nốt ruồi... duyên.

Đặc điểm ở kết cấu, bố cục trong những bài nhạc TCS là tính chắp vá, tản mạn. Câu trước và câu sau lắm khi chẳng có một mắt xích liền lạc nào. Những ý tưởng rời rạc gom góp lại thành bài hát. Thậm chí có thêm hay bớt một vài câu cũng không làm thay đổi hay thiệt hại gì đến bài hát, hoặc cho đoạn cuối, đoạn giữa lên trên, đoạn đầu xuống dưới như cách vài ca sĩ vẫn làm cũng chẳng sao. Những ý tưởng không liền lạc như thế khiến phát sinh những kiểu chế biến trong lối trình diễn nhạc TCS, như “liên khúc TCS”, hoặc ghép chung hai bài nhạc (nội dung chẳng có chút gì liên hệ với nhau) thành một bài, như “Cát bụi-Tình xa” chẳng hạn, và người nghe vẫn cứ dễ dàng chấp nhận.

Một số bài nhạc TCS có thể ví như những bài thơ có hay nhưng không hoàn hảo, người đọc tuy có thích, nhưng chỉ nhặt ra một vài câu để ngâm nga mà không thích trọn bài. Nghe nhạc TCS, trước sau vẫn chỉ là đón bắt những ý tưởng tản mạn như những bông hoa lạ và đẹp, để nhìn ngắm, thưởng thức, và đôi lúc tự tạo cho mình chút ảo giác dễ chịu trong cuộc sống tẻ nhạt thường ngày.

Tôi không định nhắc đến tên một vài ca sĩ, một vài giọng hát đã mang đến cho người nghe chút ảo giác “hạnh phúc là một tách café và nhạc TCS”, nhưng vì tác giả TCS cũng đã kể ra những tên tuổi này, trong số có Bạch Yến, người nữ ca sĩ mà ông cho rằng “hát hay nhất bài ‘Lời buồn thánh’”. (6) Tôi chưa được nghe “Chiều Chủ Nhật buồn / lặng nghe gió đi về...” qua tiếng hát của “người hát hay nhất bài ‘Đêm đông’” này, tuy nhiên tác giả bài hát đã có lời nhận xét như vậy thì chắc là phải đúng thôi. Nhưng tại sao chỉ có “Lời buồn thánh”, còn những bài khác thì sao? Ca sĩ ấy chỉ hát có mỗi bài ấy? Tôi không được rõ, thế nhưng tôi biết có những ca sĩ đúng là chỉ hát hay có một bài nào đó của TCS, như Carol Kim với “Hãy khóc đi em”, như Elvis Phương với “Này em có nhớ”. Có thể kể thêm nữa Sĩ Phú với “Nghe những tàn phai”, Vũ Khanh với “Hai mươi mùa nắng lạ”, Ngọc Lan với “Đêm thấy ta là thác đổ”, Tuấn Ngọc với “Tôi ru em ngủ”, Duy Trác với “Một cõi đi về”, Thái Hiền với “Phôi pha”, Trịnh Vĩnh Trinh với “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”... (và còn những bài hát, những giọng hát nào nữa tôi chưa được biết đến, chưa được nghe qua).

Riêng Khánh Ly, ca sĩ vẫn được nhiều người và chính tác giả TCS nêu nhận xét là có “giọng hát phù hợp nhất, thể hiện đúng tâm trạng bài hát của tôi nhất”, (6) tôi vẫn cho là chị hát Ca Khúc Da Vàng hay hơn là những tình khúc và những ca khúc mang chủ đề khác của TCS (và chính chị cũng từng nói là chị “yêu những Ca Khúc Da Vàng hơn bởi vì nó lớn hơn tình ca”). Những lời hát ấy phải sánh đôi với giọng hát ấy, phải là giọng khắc khoải, trăn trở, rã rượi, phải là cái giọng khao khao của “con chim đau” khản tiếng, phải là tiếng kêu bi thương, thảm thiết, có lúc đứt đoạn, có khi lạc cả giọng. Giọng Khánh Ly, giọng hát mang thương tích, giọng hát chở theo những định mệnh bất toàn, những nghiệt ngã của thân phận đất nước. Đâu có dễ gì tìm được một giọng hát như thế, giọng hát của “người con gái Việt Nam da vàng”... Cũng phải kể thêm một ít bài của TCS khó tìm được ai hát hay hơn chị, như những “Lời mẹ ru”, “Xin cho tôi”, “Tình nhớ”, “Mưa hồng”, “Để gió cuốn đi”, “Những con mắt trần gian”... Và giọng Lệ Thu nữa, nào có phải chỉ “hát hay nhất ‘Hạ trắng’ và ‘Xin mặt trời ngủ yên’” (6) như TCS nói, tôi cho rằng cần phải kể thêm nữa những “Cát bụi”, “Vết lăn trầm”, “Tình xa”, “Ru ta ngậm ngùi”, “Rừng xưa đã khép”, “Nắng thủy tinh”, “Như cánh vạc bay”..., và khi chị đã cất tiếng hát một tình khúc nào đó của TCS thì thật khó có ai hát qua được chị. Những nhận xét nêu trên là hoàn toàn chủ quan, không hẳn đã phù hợp đối với nhiều người.

Dường như sau ngày TCS qua đời, người ta cảm thấy lời ca của những bài nhạc viết ra sau cái “thời TCS” chẳng có gì… hay ho. Chuyện so sánh ấy đến một cách tự nhiên thôi (cho dù người ta không muốn làm một sự so sánh), khi người ta hâm mộ cái gì đó, ở đây là những lời, những ý trong những bài nhạc của TCS. Đây quả là một thiệt thòi, một thử thách khó vượt qua được cho những người viết nhạc sau TCS. Đi tìm một bài nhạc có những lời hay và đẹp như lời của TCS thật… không dễ chút nào. Một ít nhạc sĩ về sau này đi theo hoặc “bắt chước” cách đặt lời na ná như TCS nhưng… không thành công, chỉ như những mặt hàng “nhái”, “giả”, và không tạo được cảm xúc nào cho người nghe như khi nghe TCS “thật”.

***

(1) Phạm Duy, Hồi ký Phạm Duy (Tập III, Chương 20 – Thời phân chia Quốc Cộng), nxb Phạm Duy Cường, Calif. 1991

(2) TCS, tạp bút, Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người, nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2001

(3) TCS, trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về, nxb Âm Nhạc & TTVH Ngôn Ngữ

Đông Tây, Hà Nội, 2001

(4) TCS, tạp bút, Một cõi Trịnh Công Sơn, nxb Thuận Hóa & TTVH Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2002

(5) Văn Cao, lời bạt, Em còn nhớ hay em đã quên, nxb Trẻ, TP.HCM, 1991

(6) TCS, trả lời phỏng vấn, Tạp chí Thế Giới Mới, TP.HCM, 2/1999

(7) Quỳnh Giao, Trịnh Công Sơn, như cánh vạc bay, Tạp chí Văn Học, Calif. 10&11/2001

(8) TCS, tạp bút, Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ, nxb Trẻ, TP.HCM, 2001

* Những chữ in nghiêng trong bài là trích lời nhạc TCS

(Đăng lần đầu trong tạp chí Văn Học, Calif. 2&3/2004. Có hiệu đính ít chi tiết khi đưa vào sách Âm Nhạc Của Một Thời)



RE: Âm nhạc một thời - Ảo giác Trịnh Công Sơn (Tác giảLê Hữu) - lanhdien - 14-06-2013

D. Ảo giác con người TCS

Làm sao thấu từng nỗi đời riêng... (“Như một lời chia tay”), liệu câu hát ấy có thể hiểu như lời phân giải của một người trước lúc chia tay với mọi người, với cuộc đời mà ông đã từng sống, từng yêu thiết tha.

Thực tế, không dễ gì có thể hiểu hết, hiểu hoàn toàn được một con người. Ngay đến những người thân, những người có dịp gần gũi với TCS, khi nói hay viết về ông, cũng ít nêu được những điểm khả dĩ nói lên tính cách cá biệt rõ nét nơi con người ông (điều mọi người muốn biết hơn là những câu chuyện phất phơ, đôi lúc thêm thắt, chỉ để tỏ ra từng quen biết, từng là bạn là bè của ông).

Lý do những người thân, những bè bạn của ông ít có người “hiểu” ông là vì ông không có thói quen bộc lộ hay chia sẻ. Những chuyện trò bên tách café, bên ly rượu chắc không phải là những “cởi mở tâm tình” của ông. Ông chẳng có hứng thú gì để giải bày tâm sự hoặc kể lể về những nỗi riêng tư với bất cứ ai khác, ngoài chính ông.

Tự mình biết riêng mình / và ta biết riêng ta

(“Ngẫu nhiên”)

Vì vậy, nói rằng thực sự “hiểu” được ông, hoặc đã cùng ông sớt chia tâm sự thì cũng chỉ là... nói cho vui vậy. Một trong những thú tiêu khiển của ông là mỗi ngày “ngồi trong phòng uống rượu và nhìn nắng từ sáng đến chiều tối”. (6) Ông tận hưởng cái thú “ngồi yên lặng nhìn trời đất và suy tưởng về những điều mình chưa tự giải đáp được cho chính bản thân mình...” (6) Ông cũng cho biết, “Khoảng thời gian thích nhất là được ngồi yên tĩnh một mình trước khi có một người bạn đầu tiên xuất hiện để phá tan sự yên tĩnh đó.” (6) Vì thế, những nỗi niềm thầm kín của ông trước sau vẫn là “một điều giấu kín trong tim con người / là điều giấu kín thôi” (“Một lần thoáng có”).

Rõ ràng ông không phải là dạng người có khuynh hướng dễ bộc bạch những tình cảm và suy nghĩ riêng tư. Cách nói chuyện cũng như cách dàn trải ý tưởng trên những trang viết của ông đều không được rành mạch, rõ ràng. Trong cách nói và trong cách giải thích của ông vẫn có một vẻ gì không được thoải mái lắm, và cũng ít mang lại cảm giác thoải mái, dễ chịu cho người tiếp xúc, chuyện trò với ông. Những người ở gần ông dễ nhận ra điều này. Nghe ông nói chuyện, người ta có cảm giác như ông không “nói thẳng nói thật”, như còn giấu quanh giấu quẩn điều gì, như cố ý phủ lên những lời lẽ của ông chiếc khăn che đậy sự thật, khiến người nghe nửa tin nửa ngờ rằng ông... “nói vậy mà không phải vậy”. Khi cần trả lời hay giải thích điều gì, ông thường nói quanh nói quất, dùng thủ pháp “lăng ba vi bộ” để luồn lách, tránh né, không dễ gì chụp bắt được. Vì vậy, những lời giải thích hay những câu trả lời ông đưa ra thường ít làm người nghe thỏa mãn.

Khi người ta muốn biết tuổi thật của ông chẳng hạn (câu hỏi lẽ ra không nên hỏi), ông nói, “Tôi thường không nhớ năm sinh mà chỉ nhớ ngày sinh của mình(!?). Tôi quan niệm tất cả mọi người sống cùng một thời đại đều có chung một tuổi, đó là tuổi của thời đại”. (6) Người ta tò mò muốn biết quan hệ tình cảm giữa ông và ca sĩ K.L. chẳng hạn (câu hỏi càng không nên hỏi), ông trả lời đấy là “một thứ tình yêu không giống những tình yêu khác...”, là “hai người bạn lãng đãng trong cuộc đời mà rất thương yêu nhau...” (4). “Lãng đãng” như thế nào thì ông không nói rõ. Người hỏi cũng không hỏi thêm vì thấy ông trả lời có hơi... lãng đãng, nên chỉ còn biết suy đoán. Chắc phải là thứ tình gì đấy ở giữa tình yêu và tình bạn, hoặc cao hơn tình yêu, lớn hơn tình bạn, hoặc một thứ tình cảm rất “đặc biệt” nhưng... không có tên gọi. Một lối trả lời mà... không trả lời gì cả để ai muốn hiểu sao thì hiểu, không hiểu cũng... không sao.

Ông lại không phải là người nói chuyện có duyên, dù vẫn tỏ ra hóm hỉnh. Đôi lúc có vẻ như ngôn ngữ... không đủ cho ông diễn đạt ý tưởng, và ông phải loay hoay tìm chữ, lựa lời trong lúc ra những cử chỉ, điệu bộ kém tự nhiên.

Ông thích bầu bạn, gần gũi với giới trẻ, thích được các ca sĩ, các phụ nữ trẻ gọi bằng “anh”, như một cách tự đánh lừa mình, tự tạo cho mình cái ảo giác còn trẻ trung, còn sung sức, như một cố gắng để níu kéo lại phần nào quãng tuổi xuân đã trôi qua mất, đã tàn úa như “chiếc lá thu phai”, dù biết rằng chỉ là sự cố gắng vô ích. Lý do khác, có lẽ vì giới trẻ thường tỏ ra dễ chịu với ông hơn là những người lớn tuổi, ít đặt ra cho ông những câu hỏi có “vấn đề”, hoặc nếu có thì ông cũng dễ dàng tránh né hơn. Những tính cách vừa kể cũng thể hiện phần nào trong những lời nhạc của ông. Qua từng ý từng lời, ông cũng chỉ hé mở phần nào cánh cửa thế giới nội tại tiềm ẩn trong ông. Do vậy, cũng dễ hiểu vì sao những lời nhạc của ông đôi lúc có vẻ... khó hiểu.

1. Phản chiến hay không phản chiến

Đến nay nhiều người vẫn đồng ý và không đồng ý về cái danh hiệu đầu tiên người ta gán cho TCS: nhạc sĩ “phản chiến”. Chuyện người ta gọi ông là một “Bob Dylan của Việt nam” cũng chỉ là chuyện “một người nói (nữ ca sĩ Joan Baez), nhiều người nói theo”. Thực tế, có những điểm khác biệt không thể so sánh được, chưa nói là phản chiến Mỹ không giống như phản chiến Việt Nam.

TCS, ông chỉ là người viết ca khúc (songwriter), trước hết cho chính ông, tiếp đến là những ca khúc về thân phận máu đỏ da vàng chung chung, phản kháng chiến tranh chung chung, và những bản tình ca được nhiều người yêu thích vì lạ và mới, và hay nữa tất nhiên. Ông cũng có thời kỳ có vẻ bị lôi kéo, móc nối, nhưng chưa “giác ngộ cách mạng” hẳn, và có những biểu hiện ấu trĩ về chính trị. Đến khi tỉnh táo, hiểu ra thì... “tiến thoái lưỡng nan” (như tên một ca khúc của ông), khiến đi cũng dở mà ở cũng không xong, cứ luẩn quẩn lòng vòng, đi tới đi lui, không tìm ra lối thoát, như là câu hát thể hiện bức “chân dung tự họa” của ông, Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy... (“Một cõi đi về”). Bi kịch TCS là chỗ đó. Một người từng thú nhận “như đá ngây ngô” như ông, rõ ràng là không thích ứng với những hoạt động chính trị và người làm chính trị cũng chẳng dùng đến ông, hoặc nhiều lắm chỉ móc ngoặc nhằm lợi dụng trong một giai đoạn nhất thời.

Nếu “phản chiến” được hiểu là lòng mong muốn sớm chấm dứt cuộc chiến kéo dài triền miên, là khát vọng hòa bình, là ước mơ thống nhất đất nước, thống nhất lòng người, để máu xương ngừng rơi, để các bên ngừng tay chém giết và con người ngồi gần lại với nhau, thì mỗi người dân Việt đều “phản chiến” chứ đâu có riêng gì TCS. Phiền một nỗi là TCS, ông không ngừng lại ở cái nghĩa “phản chiến” tự phát từ tâm tư tình cảm ấy, ông còn muốn dấn thêm một bước nữa, còn muốn kêu gọi mọi người “dậy mà đi” (không rõ đi đâu), hô hào tuổi trẻ “lên đường” (không biết đường nào). Thử nghe lại “Chính chúng ta phải nói”:

Chính chúng ta phải nói hòa bình... (hòa bình kiểu nào, không nghe ông nói)

Chính chúng ta phải có mọi quyền… (ý nói “quyền dân tộc tự quyết” đây)

Đứng lên đòi thống nhất quê hương... (thống nhất kiểu nào, cũng không nghe ông nói)

Hoặc “Gia tài của mẹ”, khá phổ biến một thời:

Một trăm năm đô hộ giặc Tây... (một đứa bé lên mười ở Việt Nam cũng biết là... sai)

Hai mươi năm nội chiến từng ngày... (cái tội xuyên tạc ý nghĩa “cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta”, có nhẹ tay lắm cũng dăm bảy năm “học tập cải tạo” để thông suốt và nắm vững chính sách, đường lối cách mạng).

Nói nhạc TCS làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, làm rã ngũ, làm... mất nước là đề cao vai trò và tác động âm nhạc của ông quá đáng. Nhạc TCS thực sự chưa có được khả năng ấy vì không đủ trọng lượng, không đủ sức để lôi kéo, vận động quần chúng. Lý do dễ hiểu là “phản chiến” của TCS còn “chung chung” quá, lập lờ quá, thiếu lập trường chính trị mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng. Chưa nói đến trình độ lý luận, kiến thức chính trị của ông khá ấu trĩ và hạn hẹp, lắm lúc tỏ ra ngây thơ và ảo tưởng. Ông đi theo cái mà ông... không biết rõ là cái gì (!). Thật khó mà thuyết phục người khác những điều mà chính ta còn chưa hiểu rõ lắm, nói chi đến việc truyền “lửa” đấu tranh, cách mạng.

Một người viết nhạc gọi là “phản chiến chung chung” như vậy làm sao có đủ nội lực để lôi kéo kẻ khác về phe mình, làm sao có đủ ma lực của “tiếng sáo Trương Lương” để làm lính tráng phải quăng súng ống, quan quân phải rã ngũ! Những bài bản cỡ “Anh trở về bại tướng cụt chân...” (“Kỷ vật cho em”, Phạm Duy & Linh Phương), hoặc “Ngày mai đi nhận xác chồng... / Anh lên lon giữa hai hàng nến chong...” (“Tưởng như còn người yêu”, Phạm Duy & Lê Thị Ý) còn chưa ăn thua gì thì đàn địch hát xướng khơi khơi như ông dễ gì “mất nước” nổi! Làm nhạc tình yêu chung chung, thân phận chung chung thì được, chứ không thể phản chiến chung chung kiểu “Hỡi ba miền vùng lên cách mạng!” (“Huế–Sài Gòn–Hà Nội”) hoặc “Quyết chối từ chém giết anh em” (“Chính chúng ta phải nói”). Tất nhiên chẳng phe nào muốn nghe những lời “phản chiến” kiểu đó, và ông được mời ra chỗ khác chơi là vậy.

2. Những bài hát, những số phận

Nhiều người tưởng rằng TCS là nhạc sĩ ở miền Nam Việt Nam được “cách mạng” ưu đãi sau năm 1975. Thực tế, đâu biết rằng ông đã từng có những năm sống lây lất, những năm “nín thở qua sông”, có khi chết dấp ở một xó rừng nào đó cũng chẳng được ai nhắc nhở, đoái hoài. Trong những năm cả nước điêu đứng, mỗi người phải tự “mưu sinh thoát hiểm” thì TCS, ông ở đâu? Ông như mất dấu, như một kẻ không tên tuổi, như cánh chim chìm xuống.

Trong những năm ấy, chẳng ai còn bụng dạ nào, còn tâm trí nào để mà thưởng thức nhạc TCS, thậm chí chẳng ai dám nghe dám hát nhạc TCS. Phải mất nhiều năm sau đó, phải đợi cho đến khi ông gắng gượng đứng dậy được, gắng gượng “sáng tác” được ít bài bản đại loại “Em ở nông trường, em ra biên giới”, “Huyền thoại mẹ”... (những bài này không hề thấy trình diễn ở hải ngoại), người ta mới nhớ ra ông, và ông mới như từ vũng lầy nào lóp ngóp lội được lên bờ, như từ bóng tối nào của quá khứ bước ra. Từ đó ông mới tìm lại được chút tên tuổi tưởng đã đánh rớt đâu mất từ sau cơn bão của lịch sử... Ngồi nhớ lại những năm nghiệt ngã ấy, ông viết: “Tôi đi trồng và gặt lúa. Tôi đi trồng khoai, sắn ở Cồn Tiên, trên những bãi đất chằng chịt mìn có thể nổ bất cứ lúc nào ở cửa ngõ Trường Sơn. Tôi đi chợ, nấu ăn. Tôi chở bột mì rải trắng cả một con đường như ngày xưa Mỵ Châu làm dấu cho Trọng Thủy. Tôi xếp hàng mua từng điếu thuốc hạng tồi. Tôi lãnh hàng tháng một lóng tay thịt mỡ không đủ cho một con mèo ăn. Và cứ thế, cứ thế, nhiều năm, mù mịt...” (8) (Không thể nào không liên tưởng đến câu chuyện tương tự được nhiều người biết về nhạc sĩ Văn Cao, người cũng từng có quá trình xếp hàng cả buổi, chầu chực đến phiên mình để mua cho được lát thịt mỏng dính, lại còn bị bà hàng thịt nạt nộ vì không chịu lên tiếng khi nghe gọi đến tên “Văn cao, Văn thấp”. Có lẽ đầu óc ông nhạc sĩ còn đang bay bổng đến những “Thiên thai”, “Suối mơ”... mà quên rằng đây vẫn còn là cõi thế chứ nào có phải bồng lai tiên cảnh).


“Nối vòng tay lớn” (trong tuyển tập nhạc Kinh Việt Nam, 1968), ca khúc thể hiện khát vọng hòa bình, cổ xúy việc thống nhất đất nước, thống nhất lòng người, từng có thời kỳ là một trong những bài hát cộng đồng khá phổ biến trên môi tuổi trẻ, sinh viên Việt Nam, trong những trại hè, trại họp bạn, trong những cao trào lên đường xuống đường, trong những “Đêm không ngủ”, những đêm “Hát cho dân tôi nghe”. Bài hát ấy, hơn ba mươi năm về trước, ở trong nước, mọi người đã vừa hát vừa vỗ tay rất nhịp nhàng, rất khí thế, rất phấn khởi; thế mà giờ đây, ở ngoài nước, cách chọc giận người khác là đề nghị... hát lại bài hát ấy. Bài hát đành mang hai số phận, thật trớ trêu và rủi ro.

Bài hát, tự nó chẳng có lỗi gì cả. “Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...” và “Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam...”, đấy không phải là nỗi ước mơ, là giấc mộng của tuổi trẻ ngày ấy hay sao. Giấc mộng ấy đã không thành. Đâu hết rồi, những con người từng sôi nổi, từng say sưa hát bài hát ấy. Tất cả bỗng nhiên biến mất, không ai chịu đến với TCS, không ai chịu đứng xếp hàng quanh ông để mà “nối vòng tay lớn” như đã từng. Ông đứng chơ vơ một mình giữa vòng tròn tưởng tượng, cái vòng tròn ảo tưởng thật rộng lớn mà ông đã không vẽ ra được. “Đừng sợ hãi! Đừng ra đi! Hãy ở lại! Hãy cùng nhau nối vòng tay lớn!...”, mặc cho ông ra sức kêu gào một cách tuyệt vọng, mọi người vẫn ùn ùn bỏ chạy, chẳng ai nghe ông nói, nghe ông hát. Tội nghiệp, tiếng kêu gào, tiếng hát của ông bị nhận chìm trong những đợt sóng, trong cơn bão hoảng loạn. “Anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát / Quay cuồng trời rộng...”, chẳng ai hiểu ông nói những gì, ông hát những gì. Mọi người còn đang nhốn nháo, hoảng hốt, lo tìm một con đường sống. “Quay cuồng trời rộng...”, quả đúng là trời đất quay cuồng thật, và lịch sử cũng chao nghiêng.

Bài hát gắn liền với tên tuổi ông, bài hát kêu gọi xóa bỏ hận thù, nối lại tình người, các bên đều là “anh em”, bài hát ấy sau cùng đã không được đáp nhận, cũng không khác chi một loạt những ca khúc “phản chiến” của ông trước đó đã chẳng được bên nào đáp nhận, nhiều lắm cũng chỉ được xếp chung với những bài “du ca” một thời của sinh viên, học sinh. Bài hát, thật rủi ro, vì đã cất lên không đúng nơi đúng lúc, không hợp tình hợp cảnh. Bài hát, là cái “hố” lớn nhất trong đời ông, cũng là do những “ngây ngô” và ấu trĩ về chính trị. Cái “hố” ấy, thật nghiệt ngã, chỉ đến có một lần. “Một lần là trăm năm”, như một câu hát của ông. Tiếc một điều là, ngày trước, khi “cuộc chiến chưa tàn”, nếu ông đã tiên cảm được chuyện “Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui?”… (“Sao mắt mẹ chưa vui?”), thì đúng lý ra ông cũng phải “thấy” được rằng, chuyện “nối vòng tay lớn” sau “ngày tàn chiến cuộc” là chuyện… làm sao mà có nổi!

Thực tế, mãi đến bây giờ, người ta cũng chỉ phê phán người hát chứ không phê phán bài hát. Có vẻ như người ta không muốn nhắc nhở, đả động gì tới bài hát ấy, làm như không biết tới nó, làm như nó chưa hề ra đời vậy, đến nỗi nó cũng vắng mặt như một dấu lặng, không có một lời giải thích, trong tuyển tập nhạc Những Bài Ca Không Năm Tháng (gồm những bài nhạc tiêu biểu cho từng thời kỳ sáng tác, do chính người nhạc sĩ tuyển chọn, để lại cho đời). Kể ra thì cũng khó mà lạnh lùng ngoảnh mặt quay lưng với những gì mà ta đã từng có một thời yêu thích.

“Nối vòng tay lớn” trở thành nỗi chua xót, ngậm ngùi, trở thành bài hát bẽ bàng cho ông và cho cả những người từng có một thời sôi nổi hát, sôi nổi sống trong những năm tháng khó quên ấy. Bẽ bàng như cử chỉ chìa tay trước mặt người nào để làm thân mà “người ta” lạnh lùng ngoảnh mặt quay lưng, không thèm bắt. Bẽ bàng đến độ người ta đã muốn quên đi là đã từng có một bài hát như thế. Người nhạc sĩ sáng tác bài hát ấy, ông đã làm cho bài hát được yêu thích một thời và quên lãng một thời. “Nối vòng tay lớn” là một giấc mơ thật đẹp. Chỉ tiếc rằng bài hát mãi mãi vẫn chỉ là giấc mơ.

“Em còn nhớ hay em đã quên” cũng là một trường hợp lạ. Bài nhạc nội dung có vẻ “vòng tay chờ đợi” này có giai điệu và lời lẽ thật đẹp, thật thiết tha đánh vào tâm tư tình cảm người Việt tha hương, gây “dị ứng” không những đối với khối người Việt ở hải ngoại mà cả với nhà nước Việt Nam vì những cái “vẫn” nằm rải rác trong những câu hát, “Em ra đi nơi này vẫn thế”... / “vẫn có em trong tim của mẹ”... / “Vườn xưa vẫn có tiếng me ru / có tiếng em thơ”... / “Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ”... / “có hai mùa vẫn đi về”... / “Thành phố vẫn có những giấc mơ / vẫn sống thiết tha / vẫn lấp lánh hoa trên đường đi”... (nhưng nếu bỏ những chữ “vẫn” ấy đi thì bài hát... không còn là bài hát).

Người Việt hải ngoại “dị ứng” thì cũng dễ hiểu, nhưng sao cũng “dị ứng” cả với những người cầm quyền ở trong nước? “Em ra đi nơi này vẫn thế,” cả hai phía đều quyết liệt phủ nhận. “‘Vẫn thế’ thế đ. nào được,” người ở ngoài nước văng tục, “một đất nước tang thương đến như vậy!” Giới lãnh đạo trong nước cũng đời nào chịu, làm sao có chuyện “vẫn thế” được, đã “giải phóng” mấy niên rồi, bắt buộc phải khác chứ! “Vẫn thế” nghĩa là vẫn còn tàn dư chế độ cũ, là “tụt hậu”, là đi ngược lại xu thế thời đại, là kìm hãm những bước nhảy vọt (tội ấy có nhẹ tay lắm cũng phải gò lưng viết “bài kiểm điểm”). Rốt cuộc bài nhạc nghe không thuận tai ấy đành mang số phận không may, trở thành vô duyên, lạc lõng vì chẳng được bên nào đón nhận hay dành cho chút cảm tình.

Cái rủi ro khiến cho TCS là một con người–như những bài hát của ông–mang đến hai số phận. Có lẽ sau cùng, chỉ còn lại những tình khúc TCS, chỉ còn lại những bản tình ca không biên giới, không sắc màu của ông là còn ở lại được trong lòng người về lâu về dài. Tình ca, sau cùng là tiếng nói “người” nhất, là tiếng nói duy nhất trong âm nhạc không gieo rắc những nghi kỵ, những tị hiềm.