14-10-2011, 09:42 AM
THU SẦU
Tôi đi đường ngập lá vàng rơi
Nghe tiếng thời gian đếm tuổi đời
Có phải vì Thu mà nắng nhạt
Chân mây bàng bạc biển mù khơi
Không gian lơ lững treo hè vắng
Khói sóng chiều Thu nhuộm đất trời
Ai có về nơi xưa chốn cũ
Hỏi Thu còn xõa tóc buông lơi
Hỏi Thu còn xõa tóc buông lơi
Hay đã ra đi chẳng một lời
Trôi nổi sầu đau trong quạnh quẽ
Bóng chim tăm cá biệt trùng khơi
Nghìn năm Thu vẫn gieo thương nhớ
Lộng gió heo may tóc rối bời
Nhìn lại hai phương trời cách biệt
Tưởng chừng đâu đó nét hương môi .
Hôm nay Trời đã vào Thu với màu thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi não nề. Nhắc đến mùa Thu, có lẽ trong chúng ta không ai không nhớ đến bài tập đọc “ Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Bài đoản văn bất hủ đã làm bao cô cậu học trò rung động bàng hoàng mà tôi xin ghi ra đây một đoạn để chúng ta cùng chia xẻ:
“ Hằng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
.................................................. .................................................. .......................
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học. “
Tôi yêu mùa thu từ bản chất, yêu cả những bản nhạc mùa thu. Trong bốn mùa của thiên nhiên vũ trụ, có lẽ mùa Thu làm cho con người bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Chả thế mà từ ngàn xưa cho đến nay đã có biết bao nhiêu vần thơ điệu nhạc nói về mùa Thu. Người ta ca tụng mùa thu, lấy bối cảnh mùa thu được dàn dựng trong những tác phẩm của họ như những không gian lá vàng rơi hay những chia ly buồn bã.
Ai đã từng đọc bài thơ nỗi tiếng " Chansons D'automne " của thi sĩ lừng danh Pháp Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi hồi và xúc động . Không xúc động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất hủ sau đây để nức nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
" Les sanglots longs
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l'heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m'en vais
Au vent mauvais
Qui m'emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte "
" Tiếng đàn ai đó lê thê
Vĩ cầm réo rắt ê chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng hồ
Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi nhân đi tìm những vần thơ để sang tác thành những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm.
Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu,mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng bay bay, mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẻo đường. " Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về ". Hình ảnh gắn liền với mùa Thu nhất có lẽ là chiếc lá vàng , từ đó ta có những vần thơ tuyệt vời cho lá Thu như 4 câu thơ dưới đây trong bài “ Cây bàng cuối Thu” của nhà phù thủy thơ lục bát Nguyễn Bính :
Thu sang trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Nhắc đến những bài thơ hay về Thu mà không nói đến truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì thật đắc tội với tiên sinh. Bàng bạc trong tập trường thi, thỉnh thoảng tiên sinh có những đoạn tả cảnh Thu thật nhẹ nhàng như đoạn Kiều từ giã gia đình để dấn thân giang hồ:
Vi lô san sát hơi may
Một trời Thu để riêng ai một người
hoặc:
Rừng Thu từng biếc sen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
Riêng đoạn tả cảnh chia ly giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh thì thật trác tuyệt:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
hay:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Riêng Lưu Trọng Lư đã ru hồn người trôi nổi phiêu bồng trong rừng Thu ngập lá với bài thơ nổi tiếng “ Tiếng Thu”:
Em không nghe mùa Thu
Dưới trăng mờ thổn thức
........................................
Em không nghe rừng Thu
Lá Thu kêu xào xạt
Không những thế , nhà thơ còn phong phú hóa từ ngữ Việt Nam qua 2 câu cuối:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Từ đó, nhóm chữ “ con nai vàng ngơ ngác “ đã đi vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam bằng những bước nhẹ nhàng . Có chàng trai nào mà không khoái vớt được “con nai vàng ngơ ngác”trừ phi là các đấng thái giám.
Nhà thơ Tản Đà cũng đã viết về lá vàng :
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Hầu hết các thi nhân Việt Nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi nhân Việt Nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Thu Rừng-Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Ðây mùa thu tới-Xuân Diệu )
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Ai đâu trở lại mùa thu trước -Chế Lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Chiều Thu-Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Mùa Thu-Ngô Chi Lan)
Ngoài lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng thu huyền ảo.Nói đến mùa thu mà không đề cập đến ánh trăng thu mờ ảo sau áng mây trời giữa đêm khuya thanh vắng là một sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu .
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo não gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man mác trước cái lạnh không làm tê buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta bâng khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung nhớ lạnh lùng.
Nếu thi sĩ Thượng Quan Nghi đời Ðường bên Trung Quốc đã diễn tả cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng ,ve say nhạc sầu "
(Lạc đê hiểu hành -Chi Ðiền dịch)
Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy để diễn tả chị Hằng giữa đêm thu huyền diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng thu " của Lưu Trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ mất đi rất nhiều ý nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức "
Riêng nhà thơ Xuân Diệu đã nhân cách hóa ánh trăng thu khiến những dòng thơ trở thành bất tử:
" Thỉnh thỏang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi sĩ Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại. Ta hãy nghe Hàn Mặc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với lối nhân cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng Nga đang rón rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi nhân ca tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại :
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh thành
Ða đoan vó ngựa chung tình bánh xe . "
(Tình tôi-Nguyễn Bính)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
(Muốn làm thằng Cuội-Tản Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi "
(Chinh Phụ Ngâm Khúc-Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm dịch)
" Vi lô san sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn !"
(Truyện Kiều- Nguyễn Du )
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
(Cung oán ngâm khúc- Ôn như Hầu )
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay gắt rực lửa như mùa hạ trái lại rất mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Ði dưới nắng thu người ta thấy tâm hồn rất thoải mái lâng lâng ,nhất là những lúc trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố phường. Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc hai bên đại lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế Lan Viên đã làm cho ta ngạc nhiên khi viết mấy câu thơ lien quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao ."
Nhưng ngạc nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích Khê sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai điệu tuyệt vời :
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ."
Dĩ nhiên, mỗi nhà thơ diễn tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết đều ca ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất ngôn đầy lưu luyến trữ tình :
" Nõn nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc Ly đều cảm thấy hồn mình xao xuyến bâng khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha thiết nắng hoe thềm. "
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu giữa đêm khuya thanh vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang hôn, thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người lạnh lẽo,u buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ vơ giữa thế giới mưa rơi buồn bã.
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn bã nhất của trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu điều buồn bã:
" Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. "
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân Diệu cũng cho ta thấy cảnh lặng lẽ u buồn :
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy nhiên nếu trăng thu,nắng thu, mưa thu ,là những đề tài bất hủ cho các văn thi sĩ,lấy đó để sang tác thì sương thu là một đề tài không kém quan trọng để các thi nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh sương, ai đã từng ra sau vườn,đều trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây,ngọn cỏ giống như những hạt kim cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Một nhà thơ nổi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca ngợi sương thu qua bài thơ " Sương rơi. " Ðó là thi sĩ Nguyễn Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ về sương thu.:
" Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu …
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hắt hiu
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang !…
Rơi sương
Cành dương
Liễu ngã
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Từng giọt.
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi ! "
Thu về đem nỗi buồn man mác cho lòng người , gió Thu se lạnh gợi bao niềm nhớ thương như tâm tình của Hồ Dzếnh trong “ Màu Thu năm ngoái ”:
Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa
Mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác đác,có trăng thu mờ ảo giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh thót thật lâm ly. Ðã thế, nhiều lúc ánh nắng chiều thu, từng đợt gió thu hiu hiu rét làm cho người lữ hành thêm cô độc bâng khuâng, luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc lòai, như biệt ly hiu quạnh.Vì thế mà nhiều người đã cho rằng mùa thu là mùa của biệt ly,của xa cách nên tình thu thường nức nở nghẹn ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và cũng là nhung nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt ly nhung nhớ,là nói đến ngăn cách xa nhau,là nói đến chia ly buồn bã và lắm lúc nói đến vĩnh biệt ngàn đời để rồi " nghìn trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà khóc với cười ." Sự biệt ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ nhung quằn quại triền miên cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng thơ nức-nở lệ nhòa của nữ thi sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất hủ ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi ca Việt Nam. Ta hãy nghe nhà thơ T.T.KH nức nở những điệp khúc tình thu sau đây :
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !."
(Bài thơ cuối cùng)
hay là :
" Tôi sợ chiều Thu phớt nắng mờ
Chiều Thu hoa đỏ rụng chiều Thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy bên sông đứng ngóng đò
…………..
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
( Hai sắc hoa ti- gôn)
Cũng trong nỗi hoài cảm sầu ly biệt, Nguyễn Gia Linh đã dệt nên những vần thơ lục bát buồn man mác:
Ai hay ai biết đặng nào
Người đi từ độ Thu vào lòng tôi
Hoa lòng chưa nở làn môi
Đã tan theo khói đã rơi vào sầu
(Tâm tình mùa ly biệt)
Trong nỗi bâng khuâng nhớ nhà dưới trời Thu hiu quạnh, thi sĩ Đinh Hùng đã gởi tâm tình qua bài thơ “ Bài hát mùa Thu” réo rắt như một nhạc khúc trữ tình lãng mạn:
Hôm nay có phải là Thu
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn
Ai về xa mái cô thôn
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà
Thời đại bây giờ xài toàn bếp gas bếp điện thì làm gì có khói hoàng hôn nhưng sao trong lòng những người con xa quê luôn luôn:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Phải không các bạn?
Nữ sĩ Ngô Minh Hằng cũng có những giây phút chạnh lòng nhớ những mùa Thu xưa trên quê hương yêu dấu:
Lại một mùa Thu , Thu viễn phương
Hồn Thu se lạnh giấc vô thường
Đêm nay tròn lắm trăng Thu sáng
Nhưng sáng sao bằng trăng cố hương
( Trăng thơ)
Thi sĩ Thế Lữ cũng nhiều lần cảm khái với Thu:
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều Thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây
(Giây phút chạnh lòng)
Mưa Thu phơn phớt nhẹ nhàng như giọt lệ đất trời đưa kiếp nhân sinh vạn vật vào cõi mông lung huyền ảo mà Trần Huyền Trân đã diễn tả qua bài “ Ngõ trúc (Thu )”
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng
Cũng ngay trong mùa Thu , nhà thơ Quách Tấn đã ghi lại nỗi cảm xúc khi đọc bài “ Phong kiều dạ bạc “ của Trương Kế:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
( Đêm Thu nghe quạ kêu)
Mùa Thu tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều tượng trưng cho những nỗi buồn bàng bạc, những cuộc chia ly ngậm ngùi. Ta hãy thưởng thức một đoạn thơ của Cung Trầm Tưởng viết về “ Mùa Thu Paris”:
Mùa Thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỗ tràn ly
Mùa Thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đỗ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Hình như trời sinh ra mùa Thu để cho vạn vật tiêu điều ủ rũ, cho thế nhân lạc lõng u hoài . Đã thế, qua lăng kính đau thương chán nản, Hàn Mặc Tử thấy Trời Thu càng não nề chua xót hơn:
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
Với buồn phơn phớt vắng trơ vơ
Cây gì mảnh khảnh rung cầm cập
Điềm báo Thu vàng gầy xác xơ
(Cuối Thu)
Thu về trong đôi mắt người thương lãng đãng xa vời và một thoáng buồn trong không gian nhạt nhòa khói sương đã để lại cho Nguyên Trần khoảng trống vắng mênh mông:
Nghe chớm Thu về trong mắt em
Nghiêng nghiêng liễu rũ tóc buông mềm
Thì thầm gió nhẹ lay hàng giậu
Từng lá Thu buồn rơi thoáng êm
(Hoài Thu)
Mùa Thu quả thật là buồn, buồn trong lòng người cho đến vạn vật cỏ cây, tiêu điều xác xơ từ thành thị đến làng quê và hắt hiu tan tác đến cả sơn khê núi rừng . Từ mối hoài cảm đó, ta hãy để tâm tư hòa nhập với “ Thu rừng “ của Huy Cận:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng
Sầu Thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Đến đây tôi tự hỏi không hiểu vì cảnh sắc mùa Thu tự nó đã buồn hay vì tâm hồn mẫn cảm của thi nhân là “thú đau buồn “ sao mà hầu hết bài thơ mùa Thu nào cũng buồn tê tái. Chỉ có một thi nhân duy nhất với ba bài thơ diễn tả mùa Thu chẳng những không bi quan yếm thế mà còn vui vẻ yêu đời , mang triết lý sống rất là relax. Đó là cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến với ba bài thơ : Thu Điếu, Thu Ẩm và Thu Vịnh mà chúng ta đã từng phải học thuộc lòng ở bậc Trung học.
Ngày xưa, khi đọc truyện “ The last leaf” của nhà văn O’Henry, chắc các bạn cũng như tôi không khỏi bùi ngùi thương cảm chàng họa sĩ bao la tình người cho nên dù dưới trời rét căm căm vẫn cố trèo lên cây trong đêm tối để vẽ cho được chiếc lá Thu cuối cùng với từ tâm là cho Sue niềm tin mà sống sót để rồi chàng ... đã vĩnh viễn ra đi vì rét lạnh. Ôi ! Tình nhân loại sao mà cao đẹp quá !
Tôi đi đường ngập lá vàng rơi
Nghe tiếng thời gian đếm tuổi đời
Có phải vì Thu mà nắng nhạt
Chân mây bàng bạc biển mù khơi
Không gian lơ lững treo hè vắng
Khói sóng chiều Thu nhuộm đất trời
Ai có về nơi xưa chốn cũ
Hỏi Thu còn xõa tóc buông lơi
Hỏi Thu còn xõa tóc buông lơi
Hay đã ra đi chẳng một lời
Trôi nổi sầu đau trong quạnh quẽ
Bóng chim tăm cá biệt trùng khơi
Nghìn năm Thu vẫn gieo thương nhớ
Lộng gió heo may tóc rối bời
Nhìn lại hai phương trời cách biệt
Tưởng chừng đâu đó nét hương môi .
Hôm nay Trời đã vào Thu với màu thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi não nề. Nhắc đến mùa Thu, có lẽ trong chúng ta không ai không nhớ đến bài tập đọc “ Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Bài đoản văn bất hủ đã làm bao cô cậu học trò rung động bàng hoàng mà tôi xin ghi ra đây một đoạn để chúng ta cùng chia xẻ:
“ Hằng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
.................................................. .................................................. .......................
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học. “
Tôi yêu mùa thu từ bản chất, yêu cả những bản nhạc mùa thu. Trong bốn mùa của thiên nhiên vũ trụ, có lẽ mùa Thu làm cho con người bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Chả thế mà từ ngàn xưa cho đến nay đã có biết bao nhiêu vần thơ điệu nhạc nói về mùa Thu. Người ta ca tụng mùa thu, lấy bối cảnh mùa thu được dàn dựng trong những tác phẩm của họ như những không gian lá vàng rơi hay những chia ly buồn bã.
Ai đã từng đọc bài thơ nỗi tiếng " Chansons D'automne " của thi sĩ lừng danh Pháp Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi hồi và xúc động . Không xúc động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất hủ sau đây để nức nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
" Les sanglots longs
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l'heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m'en vais
Au vent mauvais
Qui m'emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte "
" Tiếng đàn ai đó lê thê
Vĩ cầm réo rắt ê chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng hồ
Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi nhân đi tìm những vần thơ để sang tác thành những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm.
Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu,mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng bay bay, mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẻo đường. " Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về ". Hình ảnh gắn liền với mùa Thu nhất có lẽ là chiếc lá vàng , từ đó ta có những vần thơ tuyệt vời cho lá Thu như 4 câu thơ dưới đây trong bài “ Cây bàng cuối Thu” của nhà phù thủy thơ lục bát Nguyễn Bính :
Thu sang trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Nhắc đến những bài thơ hay về Thu mà không nói đến truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì thật đắc tội với tiên sinh. Bàng bạc trong tập trường thi, thỉnh thoảng tiên sinh có những đoạn tả cảnh Thu thật nhẹ nhàng như đoạn Kiều từ giã gia đình để dấn thân giang hồ:
Vi lô san sát hơi may
Một trời Thu để riêng ai một người
hoặc:
Rừng Thu từng biếc sen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
Riêng đoạn tả cảnh chia ly giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh thì thật trác tuyệt:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
hay:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Riêng Lưu Trọng Lư đã ru hồn người trôi nổi phiêu bồng trong rừng Thu ngập lá với bài thơ nổi tiếng “ Tiếng Thu”:
Em không nghe mùa Thu
Dưới trăng mờ thổn thức
........................................
Em không nghe rừng Thu
Lá Thu kêu xào xạt
Không những thế , nhà thơ còn phong phú hóa từ ngữ Việt Nam qua 2 câu cuối:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Từ đó, nhóm chữ “ con nai vàng ngơ ngác “ đã đi vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam bằng những bước nhẹ nhàng . Có chàng trai nào mà không khoái vớt được “con nai vàng ngơ ngác”trừ phi là các đấng thái giám.
Nhà thơ Tản Đà cũng đã viết về lá vàng :
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Hầu hết các thi nhân Việt Nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi nhân Việt Nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Thu Rừng-Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Ðây mùa thu tới-Xuân Diệu )
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Ai đâu trở lại mùa thu trước -Chế Lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Chiều Thu-Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Mùa Thu-Ngô Chi Lan)
Ngoài lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng thu huyền ảo.Nói đến mùa thu mà không đề cập đến ánh trăng thu mờ ảo sau áng mây trời giữa đêm khuya thanh vắng là một sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu .
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo não gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man mác trước cái lạnh không làm tê buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta bâng khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung nhớ lạnh lùng.
Nếu thi sĩ Thượng Quan Nghi đời Ðường bên Trung Quốc đã diễn tả cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng ,ve say nhạc sầu "
(Lạc đê hiểu hành -Chi Ðiền dịch)
Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy để diễn tả chị Hằng giữa đêm thu huyền diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng thu " của Lưu Trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ mất đi rất nhiều ý nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức "
Riêng nhà thơ Xuân Diệu đã nhân cách hóa ánh trăng thu khiến những dòng thơ trở thành bất tử:
" Thỉnh thỏang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi sĩ Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại. Ta hãy nghe Hàn Mặc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với lối nhân cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng Nga đang rón rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi nhân ca tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại :
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh thành
Ða đoan vó ngựa chung tình bánh xe . "
(Tình tôi-Nguyễn Bính)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
(Muốn làm thằng Cuội-Tản Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi "
(Chinh Phụ Ngâm Khúc-Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm dịch)
" Vi lô san sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn !"
(Truyện Kiều- Nguyễn Du )
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
(Cung oán ngâm khúc- Ôn như Hầu )
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay gắt rực lửa như mùa hạ trái lại rất mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Ði dưới nắng thu người ta thấy tâm hồn rất thoải mái lâng lâng ,nhất là những lúc trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố phường. Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc hai bên đại lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế Lan Viên đã làm cho ta ngạc nhiên khi viết mấy câu thơ lien quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao ."
Nhưng ngạc nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích Khê sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai điệu tuyệt vời :
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ."
Dĩ nhiên, mỗi nhà thơ diễn tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết đều ca ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất ngôn đầy lưu luyến trữ tình :
" Nõn nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc Ly đều cảm thấy hồn mình xao xuyến bâng khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha thiết nắng hoe thềm. "
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu giữa đêm khuya thanh vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang hôn, thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người lạnh lẽo,u buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ vơ giữa thế giới mưa rơi buồn bã.
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn bã nhất của trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu điều buồn bã:
" Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. "
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân Diệu cũng cho ta thấy cảnh lặng lẽ u buồn :
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy nhiên nếu trăng thu,nắng thu, mưa thu ,là những đề tài bất hủ cho các văn thi sĩ,lấy đó để sang tác thì sương thu là một đề tài không kém quan trọng để các thi nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh sương, ai đã từng ra sau vườn,đều trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây,ngọn cỏ giống như những hạt kim cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Một nhà thơ nổi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca ngợi sương thu qua bài thơ " Sương rơi. " Ðó là thi sĩ Nguyễn Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ về sương thu.:
" Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu …
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hắt hiu
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang !…
Rơi sương
Cành dương
Liễu ngã
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Từng giọt.
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi ! "
Thu về đem nỗi buồn man mác cho lòng người , gió Thu se lạnh gợi bao niềm nhớ thương như tâm tình của Hồ Dzếnh trong “ Màu Thu năm ngoái ”:
Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa
Mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác đác,có trăng thu mờ ảo giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh thót thật lâm ly. Ðã thế, nhiều lúc ánh nắng chiều thu, từng đợt gió thu hiu hiu rét làm cho người lữ hành thêm cô độc bâng khuâng, luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc lòai, như biệt ly hiu quạnh.Vì thế mà nhiều người đã cho rằng mùa thu là mùa của biệt ly,của xa cách nên tình thu thường nức nở nghẹn ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và cũng là nhung nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt ly nhung nhớ,là nói đến ngăn cách xa nhau,là nói đến chia ly buồn bã và lắm lúc nói đến vĩnh biệt ngàn đời để rồi " nghìn trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà khóc với cười ." Sự biệt ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ nhung quằn quại triền miên cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng thơ nức-nở lệ nhòa của nữ thi sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất hủ ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi ca Việt Nam. Ta hãy nghe nhà thơ T.T.KH nức nở những điệp khúc tình thu sau đây :
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !."
(Bài thơ cuối cùng)
hay là :
" Tôi sợ chiều Thu phớt nắng mờ
Chiều Thu hoa đỏ rụng chiều Thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy bên sông đứng ngóng đò
…………..
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
( Hai sắc hoa ti- gôn)
Cũng trong nỗi hoài cảm sầu ly biệt, Nguyễn Gia Linh đã dệt nên những vần thơ lục bát buồn man mác:
Ai hay ai biết đặng nào
Người đi từ độ Thu vào lòng tôi
Hoa lòng chưa nở làn môi
Đã tan theo khói đã rơi vào sầu
(Tâm tình mùa ly biệt)
Trong nỗi bâng khuâng nhớ nhà dưới trời Thu hiu quạnh, thi sĩ Đinh Hùng đã gởi tâm tình qua bài thơ “ Bài hát mùa Thu” réo rắt như một nhạc khúc trữ tình lãng mạn:
Hôm nay có phải là Thu
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn
Ai về xa mái cô thôn
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà
Thời đại bây giờ xài toàn bếp gas bếp điện thì làm gì có khói hoàng hôn nhưng sao trong lòng những người con xa quê luôn luôn:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Phải không các bạn?
Nữ sĩ Ngô Minh Hằng cũng có những giây phút chạnh lòng nhớ những mùa Thu xưa trên quê hương yêu dấu:
Lại một mùa Thu , Thu viễn phương
Hồn Thu se lạnh giấc vô thường
Đêm nay tròn lắm trăng Thu sáng
Nhưng sáng sao bằng trăng cố hương
( Trăng thơ)
Thi sĩ Thế Lữ cũng nhiều lần cảm khái với Thu:
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều Thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây
(Giây phút chạnh lòng)
Mưa Thu phơn phớt nhẹ nhàng như giọt lệ đất trời đưa kiếp nhân sinh vạn vật vào cõi mông lung huyền ảo mà Trần Huyền Trân đã diễn tả qua bài “ Ngõ trúc (Thu )”
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng
Cũng ngay trong mùa Thu , nhà thơ Quách Tấn đã ghi lại nỗi cảm xúc khi đọc bài “ Phong kiều dạ bạc “ của Trương Kế:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
( Đêm Thu nghe quạ kêu)
Mùa Thu tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều tượng trưng cho những nỗi buồn bàng bạc, những cuộc chia ly ngậm ngùi. Ta hãy thưởng thức một đoạn thơ của Cung Trầm Tưởng viết về “ Mùa Thu Paris”:
Mùa Thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỗ tràn ly
Mùa Thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đỗ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Hình như trời sinh ra mùa Thu để cho vạn vật tiêu điều ủ rũ, cho thế nhân lạc lõng u hoài . Đã thế, qua lăng kính đau thương chán nản, Hàn Mặc Tử thấy Trời Thu càng não nề chua xót hơn:
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
Với buồn phơn phớt vắng trơ vơ
Cây gì mảnh khảnh rung cầm cập
Điềm báo Thu vàng gầy xác xơ
(Cuối Thu)
Thu về trong đôi mắt người thương lãng đãng xa vời và một thoáng buồn trong không gian nhạt nhòa khói sương đã để lại cho Nguyên Trần khoảng trống vắng mênh mông:
Nghe chớm Thu về trong mắt em
Nghiêng nghiêng liễu rũ tóc buông mềm
Thì thầm gió nhẹ lay hàng giậu
Từng lá Thu buồn rơi thoáng êm
(Hoài Thu)
Mùa Thu quả thật là buồn, buồn trong lòng người cho đến vạn vật cỏ cây, tiêu điều xác xơ từ thành thị đến làng quê và hắt hiu tan tác đến cả sơn khê núi rừng . Từ mối hoài cảm đó, ta hãy để tâm tư hòa nhập với “ Thu rừng “ của Huy Cận:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng
Sầu Thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Đến đây tôi tự hỏi không hiểu vì cảnh sắc mùa Thu tự nó đã buồn hay vì tâm hồn mẫn cảm của thi nhân là “thú đau buồn “ sao mà hầu hết bài thơ mùa Thu nào cũng buồn tê tái. Chỉ có một thi nhân duy nhất với ba bài thơ diễn tả mùa Thu chẳng những không bi quan yếm thế mà còn vui vẻ yêu đời , mang triết lý sống rất là relax. Đó là cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến với ba bài thơ : Thu Điếu, Thu Ẩm và Thu Vịnh mà chúng ta đã từng phải học thuộc lòng ở bậc Trung học.
Ngày xưa, khi đọc truyện “ The last leaf” của nhà văn O’Henry, chắc các bạn cũng như tôi không khỏi bùi ngùi thương cảm chàng họa sĩ bao la tình người cho nên dù dưới trời rét căm căm vẫn cố trèo lên cây trong đêm tối để vẽ cho được chiếc lá Thu cuối cùng với từ tâm là cho Sue niềm tin mà sống sót để rồi chàng ... đã vĩnh viễn ra đi vì rét lạnh. Ôi ! Tình nhân loại sao mà cao đẹp quá !