Thi Ẩm Lâu

Phiên bản đầy đủ: Bàn Về Tư Tưởng Phật Học trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Bạn có thể xem bản đầy đủ.
Bàn về " Hiệp Khách Hành "
*
Thích Chơn thiện

Thay lời tựa
*
Kim Dung
( Tra Lương Dung )
*
Tiểu sử


Theo tài liệu :
1. " Kim Dung : Cuộc Đời và Tác Phẩm ", Bành Hoa-Triệu Kiến Lập, dịch giả Nguyễn thị Bích Hải, NXB Trẻ, TP. HCM, 2002.

2. " Kim Dung : Tác Phẩm và Dư Luận ", Nhiều tác giả, NXB Văn Học, TP. HCM, 2001.

Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tháng 2, 1924 trong một gia đình gồm sáu anh chị em, Kim Dung là thứ hai, tại Viên Hoa Trấn, huyệïn Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, là nơi địa linh nhân kiệt của Trung Quốc.

Thân mẫu là người của thời " Ngũ Tứ " ( 4/5/1919 ), thời của phong trào đấu tranh dân chủ mở đầu thời kỳ hiện đại Trung Quốc, tri thủ đạt lễ, thích thơ văn, tư tưởng khai minh, dân chủ.

Thân phụ là Tra Xu Khanh không theo nghiệp văn chương, mà vào doanh thương, vừa là một đại địa chủ có đến 3.600 mẫu ruộng, với hơn 100 hộ tá điền.

Cụ cố nội là Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng bậc nhất đời Thanh. Ông nội là Tra Văn Thanh, đỗ Tiến sĩ, làm Tri huyện ở Giang Tô, bênh vực nhóm nhân dân đốt nhà thờ Thiên Chúa mà bị triều đình cách chức.

Họ Tra là dòng dõi thế gia vọng tộc, thanh danh hiển hách từ triều Nam Đường thời Ngũ Đại (907 - 960). Vua Thanh Cao Tông - Càn Long đã ngự đề một câu đối treo cao trước cổng từ đường rằng :

" Đường Tống dĩ lai cự tộc
Giang Nam hữu sổ nhân gia "
( Họ lớn từ thời Đường Tống
Danh gia bậc nhất Giang Nam )
Người đương đại thì khen :
" Một nhà bảy Tiến sĩ
Chú cháu năm Hàn lâm "
Thiếu thời, Kim Dung rất tuấn tú, thông minh, hoạt bát, tinh nghịch mà biết điều; mê cảnh đẹp và say nghe các chuyện kể hay và đẹp.
Từ năm 1930 đến 1940 : Theo học Tiểu học ở Hải Ninh, Triết Giang, học Trung học ở Hàng Châu.

Từ năm 1941 đến 1945 : Học luật pháp quốc tế khoa ngoại văn, trường đại học chính trị Trùng Khánh. Làm việc tại Thư viện Trung ương lúc chưa tốt nghiệp. Bấy giờ Kim Dung có dịp nghiền ngẫm nhiều sách, truyện.

Từ năm 1946 đến 1949 : Trở lại Hàng Châu làm phóng viên cho nhật báo Đông Nam, sau lại được Đại Công Báo tuyển trong số hơn 3.000 người dự tuyển; sang thường trú ở Hồng Kông, phiên dịch tin tức quốc tế cho báo nầy.

Từ năm 1950 đến 1955 : Chuyển sang biên tập phụ san cho báo Tân Vấn, phụ trách mục Chuyện trà chiều, kiêm dịch tin tức, dưới bút hiệu Diêu Phúc Lan.

Bấy giờ Kim Dung khởi sự viết tập tiểu thuyết võ hiệp đầu tay : " Thư Kiếm Ân Cừu Lục " với bút hiệu Kim Dung.

Năm 1956 : Sáng tác và đăng báo " Bích Huyết Kiếm ".

Năm 1957 : Viết và đăng truyện " Xạ Điêu Anh Hùng "

Năm 1959 : Viết, đăng truyện " Tuyết Sơn Phi Hồ ", truyện dài rất ngắn của Kim Dung.

Giữa năm 1959, khởi viết " Thần Điêu Hiệp Lữ ", đến năm 1962 mới xong.

Năm 1960 - 1961 : Viết, đăng " Phi Hồ Ngoại Truyện "

Năm 1963 : Viết, đăng truyện " Liên Thành Quyết " ( hay " Tố Tâm Kiếm " ) trên Minh Báo (Hồng Kông ) và trên báo Đông Nam Á ở Singapore.

Cùng năm 1963, viết, đăng " Thiên Long Bát Bộ " ( hay Lục Mạch Thần Kiếm ) trên hai báo vừa kể.

Năm 1965 : Viết, đăng " Lộc Đỉnh Ký " trên Minh Báo.

Năm 1975: Viết, đăng " Việt Nữ Kiếm ", truyện Võ hiệp ngắn nhất của Kim Dung.

Trong khoảng thời gian hai mươi năm từ 1950 đến 1970, ngoài các công việc của một phóng viên, biên tập viên, dịch các thông tin quốc tế, Kim Dung đã sáng tác 15 tập truyện Võ hiệp rất dài - trừ Tuyết Sơn Phi Hồ và Việt Nữø Kiếm - theo thứ tự thời gian như sau :

1. Thư Kiếm Ân Cừu.
2. Bích Huyết Kiếm.
3. Tuyết Sơn Phi Hồ.
4. Phi Hồ Ngoại truyện.
5. Xạ Điêu Anh Hùng truyện.
6. Thần Điêu Hiệp Lữ.
7. Ỷ Thiên Đồ Long Ký.
8. Bạch Mã Khiếu Tây Phong ( 1960 ).
9. Uyên Ương Đao.
10. Liên Thành Quyết ( 1963 ).
11. Thiên Long Bát Bộ ( 1964-1968 ).
12. Hiệp Khách Hành ( 1965 ).
13. Việt Nữ Kiếm.
14. Tiếu Ngạo Giang Hồ.
15. Lộc Đỉnh Ký .
Trong đó số hai truyện Thiên Long Bát Bộ và Hiệp Khách Hành nổi bật sắc thái Phật giáo, các tập truyện khác cũng bàng bạc đó đây triết lý Phật giáo với Thiếu Lâm tự xuất hiện như một Võ lâm Minh chủ.
Tại lễ đường của trường Đại học Bắc Kinh, ngày 27/10/1994, hơn 1000 sinh viên vui vẻ, hân hoan đón tiếp Kim Dung. Tại đây, một số câu hỏi đã được đặt ra :

Hỏi : " Thiên Long Bát Bộ phải chăng là biểu đạt quan niệm nhân sinh của ngài ? "

Đáp : " Trong Thiên Long Bát Bộ, có phần biểu đạt quan niệm nhân sinh của tôi. Lúc ấy trong tôi có tư tưởng triết học Phật giáo. Phật giáo khá bi quan đối với nhân sinh, cho rằng đời người là bể khổ. Vô luận nhân sinh tốt đẹp đến thế nào, cuối cùng rồi cũng chết

Nhưng Phật giáo còn có quan niệm khác, tuy con người không tránh được cái chết, nhưng vẫn còn có lúc tái sinh, sau nầy có thể đời sống tốt hơn, có thể cống hiến được sức mình, có thể giúp đỡ được người khác. Có thể nói rằng chân đế của Phật giáo về nhân sinh là sâu sắc nhưng giá trị thực dụng của triết học Phật giáo có thể hữu ích đối với cá nhân, còn đối với xã hội vị tất đã hữu ích � "

( " Kim Dung : Cuộc Đời và Tác Phẩm,�,tr.356 )

Hỏi : Phải chăng tiểu thuyết của ngài tuyên dương tư tưởng tôn giáo ?

Đáp : Đối với Phật giáo, tôi có phần tâm đắc, nhưng không có ý truyền giáo. Cách nhìn của tôi là, nếu anh gần với quan niệm tôn giáo nào đó thì cần tìm hiểu nó, nếu không gần gũi thì bất tất phải cố gắng truy cầu ... ( Ibid. tr.357 )

Bành Hoa và Triệu Kiến Lập thì giới thiệu về Kim Dung rằng :

" Kim Dung rất phong độ, ông ta không hề bực bội với lời lẽ của tôi ( Lý Ngao ). Ông ta khiêm tốn giải thích quan điểm của mình. Ông ta đặc biệt nhắc đến rằng từ sau khi con trai ông ta bất hạnh mất sớm, ông tập trung nghiên cứu Phật học, ông đã là một tín đồ trung thành của Phật giáo ... " ( Ibid. tr.326 )

Trong " Văn khố đại sư Văn học Trung Quốc, thế kỷ XX ,Tiểu thuyết quyển " đánh giá Kim Dung, xếp người vào vị trí thứ tư trong hàng chín bậc đại sư : Lỗ Tấn, Thẩm Tòng Văn, Ba Kim, Kim Dung, Lão Xá, Ức Đạt Phu, Vương Mông, Trương Ái Linh và Giả Bình Ao. ( Ibid. tr.345 )

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đã gây ra một tiếng vang rất xa, vang khắp các vùng Đông Nam Á từ lâu đến nỗi đã phát sinh ra hiện tượng nghiên cứu về Tiểu thuyết Kim Dung qua nhiều khía cạnh gọi là Kim học hay Kim Dung học phát triển ở Hồng Kông, Đài Loan, và cả ở Bắc Kinh, đại để như :

- " Bách gia chư tử và Kim Dung ", Viễn Cảnh Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1984 ( của Thẩm Đăng Ân ).

- " Đọc Kim Dung tình cờ tâm đắc ", Thư Quốc Trị, Viễn Cảnh Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1982.

- " Thế giới dưới ngòi bút Kim Dung ", Dương Hưng An, Bách Ích Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1983.

- " Kim Dung và Nghê Khuông ", Thẩm Tây Thành, Lợi Văn Xuất Bản Xã, Hồng Kông, 1984.

- Ở Trung Quốc ( đại lục ), đã có nhiều chuyên gia, giáo sư đại học viết bài giới thiệu hay bình luận, nghiên cứu Tiểu thuyết Kim Dung.

Tháng 2, 1986, Phùng Kỳ Dung trong bài " Bàn về Tiểu Thuyết Kim Dung " đã viết về những ấn tượng khi ông đọc Tiểu thuyết Kim Dung rằng :

- " Thứ nhất : Lịch sử mà Tiểu thuyết Kim Dung bao hàm có nội dung xã hội sâu rộng rất nổi bật và rất hiếm thấy trong các tác gia tiểu thuyết võ hiệp đương đại.

Thứ hai : Tư tưởng mà Tiểu thuyết Kim Dung đề cập có thể nói là đủ chư tử bách gia, tam giáo cửu lưu, hầu như bao gồm tất cả; còn về phương diện văn học thì cả thơ, từ, ca, đối ngẫu, câu đối, khúc tử đều có đủ lại rất đắc địa, không hề gò ép khiên cưỡng, khiến cho người ta có cảm giác vốn liếng và khí lực của tác giả còn rất dồi dào sung mãn.

Thứ ba : Trên phương diện nghệ thuật, một số nhân vật do Kim Dung sáng tạo rất nhiều hình tượng sinh động, thành công như Tiêu Phong, Trần Gia Lạc, Văn Thái Thái, Hoắc Thành Đồng, Quách Tĩnh, Hoàng Dung v.v... Đó là những hình tượng khó quên, có sức hấp dẫn rất mãnh liệt. Có ai đọc những bộ Tiểu thuyết ấy mà không cảm động trước những hình tượng nghệ thuật như vậy.

Thứ tư : Ấn tượng đặc biệt sâu sắc của tôi ( tức Phùng Kỳ Dung ) là chất văn học trong Tiểu thuyết của Kim Dung: Nó khác hẳn tất cả tiểu thuyết võ hiệp cũ lẫn tiểu thuyết võ hiệp đương đại . Nó không những có ngôn ngữ trong sáng, tính văn học cao, hành văn lưu loát, uyển chuyển; mà cả thơ cả từ trong đó đều sử dụng rất khéo; điều quan trọng nữa là trong tác phẩm thường chan chứa ý thơ, đạt đến cảnh giới mỹ lệ. Theo cách nói quen thuộc, đó là một thế giới rất phong phú đa dạng, khiến người ta cảm thấy như đang sống trong thế giới ấy, cảm thấy được hưởng thụ nghệ thuật, một thứ mỹ cảm khiến người ta say sưa.

Thứ năm : Sự biến hoá của tình tiết nghệ thuật trong tiểu thuyết Kim Dung như núi mọc lên đột ngột ngoài trời, đó là chỗ khiến người ta phải vỗ án khen tuyệt. Đang tưởng như " sơn cùng thủy tận " bỗng gặp đường lối mở ra, tình men theo cảnh, hợp tình hợp lý. Chính vì thế mà người ta không sao rời sách, cứ phải đọc cho đến hết .

- Năm 1992, " Bách Hoa Châu Văn Nghệ Xuất Bản Xã " đã xuất bản cuốn " Phân Tích và Thưởng Thức Tiểu Thuyết Kim Dung "...

- Một số trường đại học nổi tiếng, đã có nhiều chuyên đề"Nghiên cứu Kim Dung "...

- Các tác phẩm từ " Thư Kiếm Ân Cừu Hận " đến " Lộc Đỉnh Ký " đã được giới điện ảnh làm thành phim nhựa ( ibid. tr. 265 - 267)

Về nhiệt tình chính trị của Kim Dung, Bành Hoa và Triệu Kiến Lập nhận xét : " Trong bộ tiểu thuyết này ( Thư Kiêm Ân Cừu Hận) ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện nhiệt tình chính trị của mình : tình cảm dân tộc, lòng yêu tổ quốc, cho đến lý tưởng an bang trị quốc, cứu đời cứu dân. Nhãn quan của Kim Dung rất chính xác " ( Ibid. tr.299 )

Ngày 16 tháng 7, năm 1981, được sự sắp đặt của chính quyền Trung Quốc, Kim Dung, phu nhân và con trai vào thăm đại lục, được Đặng Tiểu Bình tiếp kiến, nhiều nhân vật cao cấp ở Quốc Hội và Chính Phủ tiếp xúc, trao đổi. Sau chuyến Bắc du dài, thăm mười Tỉnh và Thành phố trong nước, tại Hồng Kông, các phóng viên Minh Báo đã phỏng vấn, Kim Dung đã xác định và điều chỉnh lập trường chính trị và cái nhìn của ông về đại lục, phát biểu rằng :

" Thứ nhất, tôi tin rằng hiện nay ở Trung Quốc không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế vị trí lãnh đạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Thứ hai, tôi tin rằng Trung Quốc trong mấy mươi năm sắp tới không thể thực hành dân chủ theo kiểu phương Tây, mà dù có khả năng thì chưa chắc đã có lợi cho đất nước và nhân dân.

Thứ ba, cá nhân tôi tán thành Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội khai minh. Nói chung, so với thói quen phóng túng và sự phân hóa giàu nghèo thái quá trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội công bằng hợp lý hơn. Nhưng ở đại lục tự do của cá nhân còn hạn chế, Đảng Cộng Sản lãnh đạo làm kinh tế hiệu suất còn thấp, chưa giải phóng được lực lượng sản xuất của nhân dân, tư tưởng và tác phong tả khuynh khá nghiêm trọng. Cá nhân tôi tán thành việc không ngừng cải cách từng bước, chứ không nghĩ rằng một cuộc cách mạng long trời lở đất có thể giải quyết được vấn đề " Tôi nhận thấy Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ Trung ương đến địa phương đã không còn khoa trương như trước mà phần nhiều nói về khuyết điểm của mình, ít nói đến thành tích, điều nầy để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc nhất ". ( Ibid. tr. 302 )

Nhận xét về chế độ, tổ chức xã hội ở Hồng Kông, nơi cư trú hơn hai mươi năm qua của Kim Dung, Kim Dung đánh giá :

"... Điều đáng quý nhất của Hồng Kông là tự do sinh hoạt, tinh thần pháp trị, sự phát triển kinh tế có hiệu suất và linh hoạt, có nhiều cơ hội cho con người, cái dở nhất của Hồng Kông là sự bất hợp lý, bất công bình của tự do tư sản cực đoan " ( Ibid. tr.303 )

Với khối óc và con tim lớn, từng trải qua các biến đổi của thời đại, thế kỷ XX, nắm vững thông tin thế giới, hẳn là Kim Dung đã chuyển tải qua các tiểu thuyết võ hiệp của mình nhiều quan niệm, tư tưởng, nhiều nhận xét đánh giá giá trị về xã hội hiện đại ( Trung Quốc và Thế giới ) và hẳn đã truyền vào đó những cái nhìn và ý tưởng chân xác về thái độ sống của các cá nhân, tập thể để xây dựng một cuộc sống công bằng, nhân ái và an lạc, hạnh phúc tốt đẹp nhất có thể. Thế nên, tiểu thuyết của ông đã có một hấp lực lớn quấy động các sạp báo Saigon, và cả Saigon, trong những năm của thập niên 60. Dân chúng nhiều giới đều hâm mộ đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Không khí hâm mộ dấy lên như là không khí xem phim Tây Du Ký trên màn ảnh nhỏ của thập niên 80, TP Hồ Chí Minh. Tác giả tập sách này cũng bị cuốn hút theo làn sống hâm mộ có thể đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung liên tục nhiều ngày đêm không mệt mỏi, tưởng chừng như đang đi vào lục lọi túi khôn của nhân loại mà Kim Dung đã dốc cạn vào trong truyện.

Ngày nay, các học đường nhiều nơi đang lác đác nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung qua nhiều phương diện, đang chuyển thành hiện tượng " Kim học " hay " Kim Dung học". Tại Việt Nam, 15 bộ tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung đang được Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội ấn hành từ năm 2001 :

- Anh Hùng Xạ Điêu, 8 tập ( >= 350 trang ), 2001.
- Tiếu Ngạo Giang Hồ, 8 tập ( >= 350 trang ), 2001.
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký, 4 tập ( >= 700 trang ), 2002.
- Lộc Đỉnh Ký, 10 tập ( >= 300 trang ), 2002.
- Thiên Long Bát Bộ, 9 tập ( >= 300 trang ), 2003.
- Hiệp Khách Hành, 4 tập ( >= 250 trang ), 2003.

Điều nầy khiến người viết " Bàn về Tiểu Thuyết Kim Dung " đi tìm lại các cảm xúc của mình khi mải mê đọc võ hiệp Kim Dung vào thập niên 60, đặc biệt là cảm xúc về Phật học, về Văn hoá và Giáo dục. Người viết chỉ có một nguyện vọng khiêm tốn là nói lên một tiếng nói trân trọng về những gì tốt đẹp mà Kim Dung đã cống hiến cho độïc giả bốn phương.

Tác giả cẩn bút
Tỷ kheo Thích Chơn Thiện
Chùa Tường Vân, Huế
Bàn Về Tư Tưởng Phật Học trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung
*
Phần Một
Bàn về " Hiệp Khách Hành "
*
Thích Chơn thiện


Thay lời tựa - Tiểu sử / I. Mở đầu / II. Hồi 1 : Huyền Thiết Lệnh /
III. Hồi 2 : Thiếu niên gây đại họa / IV. Hồi 3 : Ma Thiên Nhai /
V. Hồi 4 : Bang chúa rừng Lạc bang / VI. Hồi 5 : Đinh đinh Đang đang /
VII. Hồi 6 : Vết thương / VIII. Hồi 7 : Tuyết Sơn kiếm pháp /
IX. Hồi 8 : Thằng Ngốc / X. Hồi 9 : Đòn bánh tét / XI. Hồi 10 : Kim Ô Đao pháp /
XII. Hồi 11 : Rượu thuốc / XIII Hồi 12 : Hai tấm bài đồng / XIV. Hồi 13 : Tình cốt nhục /
XV. Hồi 14 : Tứ đại môn phái ở Quan Đông / XVI. Hồi 15 : Chân tướng /
XVII. Hồi 16 : Thành Lăng Tiêu / XVIII. Hồi 17 : Tự đại thành cuồng /
XIX. Hồi 18 : Điều phải cầu xin / XX. Hồi 19 : Cháo Lạp Bát /
XXI. Hồi 20 : Hiệp Khách Hành / XXII. Hồi 21: Ta là ai ? / TỔNG LUẬN



I. Mở đầu

1. Ấn bản đầu tiên năm 1965. Ấn bản năm 1977 có thay đổi một số tình tiết, khiến " Hiệp Khách Hành " trở nên chặt chẽ và ý vị hơn.
2. Đoạn kết của bản tu chỉnh kết thúc từ cảnh Thạch Phá Thiên thành công trong công phu giải bí kíp Thái Huyền Kinh, trở về Khô Thảo Lĩnh, núi Hùng Nhĩ, gặp "má má " Mai Phương Cô để lại niềm băn khoăn về gốc gác của chính mình : " gia gia ta là ai ? ", " má má ta là ai ? ", " Ta là ai ? ". Những câu hỏi, mà tập truyện là câu trả lời, làm dấy lên trong người đọc niềm thao thức khôn nguôi.

3. Bài cổ thi " Hiệp Khách Hành " của thi hào Lý Thái Bạch là bí kíp Thái huyền công cất giữ trên đảo Hiệp Khách. Nguyên văn bài cổ thi là :

" Triệu khách mạn hồ anh ; Ngô câu sương tuyết minh ;
Ngân yên chiếu bạch mã ; Tạp đạp như lưu tinh .
Thập bộ sát nhất nhân ; Thiên lý bất lưu hành ;
Sự liễu bất y khứ ; Thâm tàng thân dữ danh .
Nhàn quá Tín Lăng ẩm ; Thoát kiếm tất tiền hoành ;
Tương chích đạm Chu Hợi ; Trì khương khuyến Hầu Doanh .
Tam bôi thổ nhiên nặc ; Ngũ nhạc đảo vi khinh ;
Nhãn hoa nhĩ phục hậu ; Ý khí tố nghi sinh .
Cứu Triệu huy kim trụy ; Hàm Đan tiên chấn kinh ;
Thiên thu nhị tráng sĩ ; Huyền hách Đại Lương thành .
Túng thử hiệp cốt hương ; Bất tàm thế thượng anh ;
Thùy năng thư các hạ ; Bạch thủ Thái huyền kinh ".

Dịch nghĩa :

" Khách nước Triệu phất phơ giải mũ ; Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương ;
Ngân yên bạch mã huy hoàng ; Vó câu vun vút như ngàn sao bay.
Cách mười bước giết người chẳng trật ; Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi ;
Việc xong rũ áo ra đi ; Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm .
Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến ; Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi ;
Này nem, này rượu khuyên mời; Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh.
Ba chén cạn thân mình sá kể; Năm núi cao xem nhẹ lông hồng ;
Mắt hoa mặt đã nóng bừng ; Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.
Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái; Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng;
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng ;Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.
Người dù chết xương còn thơm ngát ; Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào;
Kìa ai ẩn náu trên lầu ; Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong ".

4. Nguyên bản năm 1965 thì không có lời hậu ký. Nguyên bản tu chỉnh năm 1977 thì có lời hậu ký rằng :

"... Mọi cố gắng để chú thích và bình luận đều làm tổn hại đến bản ý của tác giả, lại còn tạo ra những trở ngại nghiêm trọng. Bộ Hiệp Khách Hành này viết 12 năm trước, đã diễn giải ý kiến này khá đầy đủ. Gần đây tôi đọc nhiều kinh Phật hơn, đối với ý nầy càng tâm đắc.

Kinh Bát Nhã của Đại thừa, Trung Quán luận của Long Thọ đều cực lực bài bác những luận giải phiền phức cho rằng các loại kiến thức chú giải đều do hư vọng sinh ra , chỉ làm trở ngại cho việc thấy đạo của người tu học. Khi tôi viết Hiệp Khách Hành nầy, tuy không thể nói là hoàn toàn không biết kinh Phật, nhưng chỉ mới đọc hết Kinh Kim Cang vào tháng 11 năm ngoái, tôi còn đọc Bát Nhã và Trung Quán lại còn mới hơn, mới Xuân Hạ năm nay.

Nhân duyên bên trong việc này, thật không thể nào giải thích được ".

Tháng 7, 1977.
Qua lời hậu ký của Kim Dung viết từ năm 1977, độc giả có thể hình dung ra một số điểm đáng lưu ý rằng :
- Các giải thích, giải mã, bình luận của nhiều ý kiến đương thời đều rơi vào các định kiến, giữa khi ý của tác giả, trong truyện, thì phù hợp với giáo lý nhà Phật, phù hợp với vô ngã và vô chấp.

- Lúc sáng tác Hiệp Khách Hành, 1965, Kim Dung nhìn nhận bấy giờ chưa đọc nhiều kinh điển Phật giáo, nhưng vốn tâm đắc giáo lý nhà Phật, có nghĩa là có cái nhìn nhân sinh và thế giới phù hợp với tinh thần Phật học. Lúc tu chỉnh, 1977, tác giả đã đọc kỷ Kinh Kim Cương, tạng Bát Nhã, Trung Quán Luận.

Thực sự từ 1967, người viết " Bàn về Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung ", một tu sĩ Phật giáo, đã thấy rõ ảnh tượng Kinh Kim Cương khắp bốn tập truyện Hiệp Khách Hành, đã cùng các pháp hữu sôi nổi trao đổi cảm nhận ở ngoài hành lang của giảng đường Phật học Vạn Hạnh. Hẳn là có chút băn khoăn về phần kết của truyện. Nay thì phần ấy đã được tu chỉnh rất gọn.

- Do vì Kim Dung tâm đắc với Phật giáo nên cái nhìn của tác giả, qua toàn truyện, toát ra nhiều hương sắc Phật giáo. Đây là phần khảo sát của người viết, không đi vào các hàm ý giá trị khác.


II. Hồi 1 : Huyền Thiết Lệnh

A . Tóm tắt hồi 1
- Tạ Yên Khách, một quái kiệt giang hồ, sinh thời đã tặng cho ba đại ân nhân ba tấm Huyền Thiết Lệnh, mỗi tấm Thiết Lệnh có thể yêu cầu Tạ Yên Khách làm bất cứ một việc gì dù khó khăn, nguy hiểm. Tạ Yên Khách đã thu về hai tấm và đã làm hai việc chấn động giang hồ. Tấm thứ ba tặng cho một đại hiệp mà có lẽ trọn đời vị đại hiệp sẽ không dùng đến. Không may vị đại hiệp đánh rơi Thiết Lệnh. Thế là giang hồ tranh nhau tìm đoạt, bao gồm cả chủ nhân Tạ Yên Khách: nhóm Kim Đan Trại, nhóm kiếm sĩ Tuyết Sơn, hai hiệp khách Thạch Thanh, Mẫn Nhu, v.v...

- Kiếm sĩ Ngô Đạo Thông đang cất giữ Huyền Thiết Lệnh nầy và trở thành kẻ địch của thiên hạ. Ngô Đạo Thông vừa nuôi tham vọng nhờ cậy Tạ Yên Khách, vừa hoá trang để che mắt: làm một ông già bán bánh Tiêu ở trị trấn Hầu Giám Tập: đao kiếm đẫm máu đã xẩy ra vào một buổi hoàng hôn ... Bấy giờ có một bé ăn xin Cẩu Tạp Chủng đi lang thang tìm mẹ, kẹt giữa " trận chiến " đao kiếm, tình cờ nhặt được chiếc bánh tiêu bên vệ đường để ăn, chiếc bánh mà Ngô Đạo Thông cất giữ Thiết Lệnh.

- Tạ Yên Khách tìm thấy Thiết Lệnh từ chiếc bánh tiêu của Cẩu Tạp Chủng trước sự chứng kiến của nhiều kiếm khách. Theo lời hứa, Tạ Yên Khách phải bảo vệ cậu bé, và phải làm theo một yêu cầu của bé, nhưng bé thì vâng theo giáo huấn của "má má " ở Hùng Nhĩ, trọn đời sẽ không mở miệng xin ai một điều gì. Do vậy, Tạ Yên Khách phải giữ cậu bé cạnh mình, không rời một bước, sợ bị người xấu xúi giục yêu cầu điều khó thực hiện, và chờ đợi cơ hội để đánh lừa bé...

- Tạ Yên Khách đem Cẩu Tạp Chủng về sống cách ly trên đỉnh núi Ma Thiên Nhai cô vắng .

B. Ý kiến

1. Hiệp sĩ, hay hiệp khách, là người thường cứu giúp người, cứu giúp đời, thoát khỏi các áp bức , bất công. Xa hơn, Hiệp khách còn trừ khử các cường tặc, các tham quan ô lại để bảo vệ dân lành, bảo vệ các quan trung chính vì nước, vì dân. Nhân vật chính của truyện kiếm hiệp vì thế đầy tiết khí, hấp dẫn người đọc. Kim Dung đã mượn tiểu thuyết kiếm hiệp như là phương tiện tốt nhất để chuyên tải tư tưởng, tâm sự, cảm xúc, tiết khí của mình đối với nhân quần và quốc gia xã hội, xây dựng một hệ văn hoá đầy tính nhân văn và trí tuệ.

2. Nền văn hoá nào cũng nói về điều thiện, đề cao điều thiện, nhưng quan niệm về lẽ thiện thì có điểm khác nhau. Kim Dung nói :

" Bậc thông minh tài trí, kẻ hùng cường dũng cảm đại đa số đều tích cực tiến thủ. Tiêu chuẩn đạo đức đã chia họ ra làm hai loại người : mưu cầu hạnh phúc cho nhiều người, đó là người tốt; chỉ chú ý đến quyền lợi và địa vị, dục vọng của riêng mình mà làm hại người khác, đó là người xấu. Mức độ tốt xấu căn cứ vào mức độ họ đem lại hạnh phúc hay gây tai họa cho người khác để xác định ".

3. Về quan niệm về Truyền thống, giáo sư triết Lý Đỗ, trong dịp thảo luận với Kim Dung tại Đại học Tân An, Hồng Kông, đã hỏi:

" Tôi đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Tiếu Ngạo Giang Hồ, v.v... Tôi đoán, phải chăng tiên sinh cảm thấy văn hóa của chúng ta phát triển đến ngày nay, những cái tốt đẹp của truyền thống đã rơi rụng mất rồi, cần phải tìm ở bên ngoài, như vậy hơi có ý vị phủ định truyền thống ,"

Kim Dung đáp :

" Có mấy bộ tiểu thuyết, xuất phát điểm của tôi lúc ấy là phủ định cách nghĩ giáo điều chủ nghĩa. Tôi tín phục lý tính... Tôi nghĩ bản thân chân lý cũng có tính tương đối của nó. Xã hội biến thiên, chân lý cũng có thể thay đổi. Đạo lý ngàn vạn năm bất biến, đó là điều mà tôi không tin. Sự thực, những kẻ cuồng tín rất nhiều, thậm chí trong lãnh vực khoa học cũng có, những lý thuyết khoa học đã từng được người ta cho là chân lý nhưng rồi lại hóa ra không hoàn toàn đúng ".

4. Về quan niệm Nhân quả - Nghiệp giản đơn ở đời, như " ở hiền thì gặp lành, ác giả ác báo " - khác với nhân quả ba đời ( quá khứ, hiện tại và vị lai : sanh báo, hậu báo và laibáo, của Phật giáo thì Kim Dung nghĩ khác hơn :

" Tôi muốn mượn tiểu thuyết để phản ảnh nhân sinh. Ở đời không nhất thiết ' ở hiền gặp lành, ác giả ác báo '. Cuộc đời thật ra rất phức tạp, số phận cũng thiên biến vạn hóa. Nếu cứ theo mô thức nhất định mà mô tả thì quá giản đơn hóa cuộc đời. Cờ vây có công thức nhất định mà nhân sinh thì không có định thức. Đem Kinh kịch để biểu hiện nhân sinh thì thường định thức hóa, chức năng nghệ thuật của Kinh kịch thường thiên về giáo huấn, khó lòng thể hiện chân thực đời sống ". ( Ibid.tr.330 )

Các điểm vừa nêu trên, từ mở đầu, là ánh sáng rọi vào " Hiệp Khách Hành " để người viết nhận ra tư duy mới và tư tưởng Phật học của Kim Dung.

5. Các nhân vật trong Hồi 1 biểu hiện các mẫu hình tâm lý về thiện, ác, bất định ở nhiều cấp độ, như :

- Tạ Yên Khách là một quái kiệt võ lâm bất câu thiện, ác, đã tặng ba tấm Huyền Thiết Lệnh và hứa sẽ làm theo một yêu cầu của người có Thiết Lệnh, nhưng khi một tấm rơi vào tay cường đạo, ông ta đã bằng mọi thủ đoạn để đoạt lại tấm Thiết Lệnh ấy. Ông thuộc loại mẫu tâm lý bất định.

- Nhóm Kim Đao Trại thì hung hãn, đầy ham muốn vị kỷ, xem mạng sống của tha nhân như cỏ rác : nhóm nầy thuộc tâm lý xấu ác.

- Thạch Thanh - Mẫu Nhu suốt đời trọng nghĩa, làm việc nghĩa giúp người : thuộc tâm lý thiện, tốt.

- " Má má " của Cẩn Tạp Chủng do hận tình mà một lần đã gia hại gia đình Mẫn Nhu : theo tâm lý Phật giáo, nàng thuộc hạng tâm lý si và hận, thuộc ác tâm, hại tâm ...

- Tên giúp việc trong tiệm tạp hóa quen thói " lý sự cùn ", khi nghe một tay đao kiếm hung hãn nói : " Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra ". liền buột miệng bép xép : " Đao thì làm gì có mùi ?" liền bị tên hung hãn vung roi giật bắn người ra đường chết toi. Cái chết rẻ rúng, lạt nhách như thế là sự cảnh tỉnh cái thói quen hư đàm, huyền luận vô bổ.

- Cẩu Tạp Chủng là mẫu tâm lý thuần thiện : trong sáng, chân thật rất nguyên sơ, thông tuệ, nhân ái. Đây là mẫu tâm lý mà Kim Dung xây dựng niềm tin phát triển sẽ đi về chân, thiện, mỹ : chàng sống vô cầu, vô dục từ thân phận kẻ ăn xin, rồi đời sống dẫn dắt đến điểm nhặt được Huyền Thiết Lệnh, thân cận quái khách, đi vào phương trời mới.

Qua Hồi 1, người đọc có cảm nhận rõ : ai sống thiểu dục tri túc thì tốt đẹp cho bản thân và xã hội; sống đa dục, vị kỷ thì làm khổ mình, khổ người, thể hiện triết lý sống của nhà Phật.


III. Hồi 2 : Thiếu niên gây đại họa

A. Tóm tắt hồi 2
- Hai hiệp Khách Thạch Thanh và Mẫu Nhu ký thác con trai là Thạch Trung Ngọc làm môn nhân của kiếm phái Tuyết Sơn. Năm 15 tuổi, Thạch Trung Ngọc là một thiếu niên năng động, láu lỉnh, đa tình, hay chọc ghẹo A - Tú, 13 tuổi, con gái của Bạch Vạn Kiếm ( Cháu nội của bang chủ Tuyết Sơn ); A Tú chưa bị hạ nhục, nhưng tức mình tự vẫn ( được kể lại ). Mẹ nàng bị trách cứ, và vì thương con mà sanh cuồng trí. Phong Vạn Lý, thầy dạy kiếm của Thạch Trung Ngọc, bị bang chủ tức mình chặt đứt một cánh tay. Bang chủ phu nhân bị vạ lây, bỏ Tuyết Sơn ra đi. Hai người sư thúc khác của Thạch Trung Ngọc bị Đinh Bất Tam giết vì lý do khác cũng được kết vào tội do lỗi Thạch Trung Ngọc gây ra. Từ đó Bạch Vạn Kiếm dẫn một toán kiếm sĩ hạ sơn tìm kiếm Thạch Trung Ngọc để giết, và đốt Thạch gia trang để rửa hận.

- Bạch Vạn Kiếm đòi Thạch Thanh - Mẫn Nhu đến gặp bang chủ Tuyết Sơn ( Bạch Tự Tại ) để nhận trách nhiệm làm cha làm mẹ. Giọc đường cả toán Tuyết Sơn bị Tạ Yên Khách tấn công thu hết kiếm, lại vô minh chồng chất, kết oán cho rằng Thạch Thanh và Mẫn Nhu ám hại họ.

B. Ý kiến

1. Ở tuổi 15, Thạch Trung Ngọc chỉ là một thiếu niên " quậy phá ", trêu chọc A Tú, dễ dàng được các võ sư, kiếm sĩ uốn nắn, nhất là khi A Tú suýt bị hại. Vậy mà gia đình bang chủ Bạch Tự Tại đã để mình rơi vào một số sai lầm mà giáo lý nhà Phật gọi là vô minh :

- Có các người ganh ghét và đố kỵ Thạch Trung Ngọc ( do vì Thạch Trung Ngọc có bố mẹ thân tình với bang chủ, giàu có và tiếng tăm ) đã dựng chuyện thêu dệt, chuyện bé xé ra to.

- Có những bàn tay quái nghịch trong bóng tối như Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ, A Đang nhúng tay vào khiến cho sự việc rối rắm.

- Quan niệm sai lầm về giá trị " đứng đắn ", " tiết trinh ", đức hạnh " của người con gái của gia đình Bạch Tự Tại đã " đổ dầu vào lửa " cho sự việc cháy bùng, đáng tiếc !

- Các tướng trạng, hay các sự kiện, biểu hiện do rất nhiều nguyên nhân xa, gần tác động, nhưng " vô minh " đã giục gia đình Bạch Tự Tại quy tội về cho Thạch Trung Ngọc, một mình Thạch Trung Ngọc.

- Từ nhìn sai sự việc, dẫn đến hành động sai lầm; các hành động sai lầm dẫn đến sự kết nối sai lầm dây chuyền. Hầu như Kim Dung đang phô diễn cái hư huyễn của các tướùng trạng, và cái nguy hại của các tâm lý xấu của con người mà Kinh Kim Cang nhà Phật gọi là " Các tướng trạng đều không thật " ( " Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng " )

2. Cục diện Tuyết Sơn khởi đầu rối rắm do nhìn sai, thấy sai và nghĩ sai : thuật ngữ Phật giáo gọi là tà kiến và tà tư duy ; từ đó kéo theo các sai lầm khác như báo cáo sai ( tà ngữ ), hành động sai ( tà nghiệp ), tưởng nghĩ sai ( tà niệm ), nỗ lực giải quyết sai ( tà tinh tấn ) do thiếu sáng suốt, định tỉnh ( tà định ). Tại đây Kim Dung bắt đầu gợi mở ra nếp sống, nếp văn hóa "Bát Chánh Đạo" của Phật giáo : nếp sống của sự đúng đắn, ổn định.

3. Cảnh tượng Cảnh Vạn Chung của Tuyết Sơn chạm vào nội lực của Thạch Thanh mới nhận ra nội lực quá yếu kém của mình, sợ hãi đến toát mồ hôi lạnh : sự việc nầy các người chung quanh không nhận ra, rằng giá trị của sức mạnh của một kiếm khách nằm ở nội lực, mà không ở bên ngoài kiếm thuật. Cũng vậy, giá trị của một hành động là dựa vào cái tâm tác động lên hành động ( tốt xấu )...) mà không nằmở bên ngoài của biểu hiện hành động. Đây là nội dung định nghĩa chữ Nghiệp (Karma ) của nhà Phật.

4. Thạch Thanh và Mẫn Nhu là hai đại hiệp khách chân chính mà liên tục gặp tai ương : con, Thạch Trung Ngọc bị nạn; Thạch Gia Trang bị đốt; các gia nhân của Thạch Gia Trang bị khốn đốn; một đứa con trai khác, Thạch Trung Kiên, bị " Mai Phương Cô " ( tình địch ) bắt đi mất tích từ năm lên một. Đây là trường hợp ở ngoài sự thật " ác giả ác báo, ở hiền gặp lành " mà người đương thời tin tưởng.

5. Đời sống thì dẫy đầy các tác nhân vô thường, bất định :

- Các sân hận thì phản ứng đột ngột, tai hại bất định, khó lường.

- Các tâm lý tham thì hành động âm thầm, mưu thâm đầy nguy hiểm.

- Các tâm lý bất định hành động tùy hứng như Tạ Yên Khách, Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ, A Đang... thì khó lường. Giữa môi trường sống đó thì con người dễ mắc vào các tai họa, rủi ro không do mình gây ra. Đây là nỗi khổ vô thường, theo Phật học, gắn chặt với thân phận con người ở ngoài mọi " logic ".

Chỉ có sự thuần túy thuật chuyện về một hồi truyện ngắn của Kim Dung đã ảnh hiện rất nhiều điểm về Phật học, rất ý vị !


IV. Hồi 3 : Ma Thiên Nhai

A. Tóm tắt hồi 3
- Tạ Yên Khách thu hồi được Huyền Thiết Lệnh từ Cẩu Tạp Chủng ; sợ nguy hại đến tánh mạng nếu có người xúi giục Cẩu Tạp Chủng yêu cầu Tạ Yên Khách tự vẫn hay phế bỏ võ công, nên ông đã đem Cẩu Tạp Chủng từ thị trấn Hầu Giám Tập về sống trên đỉnh Ma Thiên Lĩnh, ngày đêm giám sát cậu bé.

- Trên đường đi, Tạ Yên Khách dùng đủ mưu mô dụ dỗ, uy hiếp buộc Cẩu Tạp Chủng cầu xin ông một điều gì cho làm xong lời hứa, nhưng cậu bé thì tuyệt nhiên không mở miệng cầu xin bất cứ ai một điều gì. Đây là lý do mà cậu bé được sống lâu dài bên cạnh quái khách Tạ Yên Khách trên Ma Thiên Lĩnh để hầu hạ ông ta và luyện tập bí pháp "La hán phục ma thần công ".

- Trên đường đi, chứng kiến ba cao thủ Trường Lạc bang đang uy hiếp, bức tử Đại bi lão nhân, Cẩu Tạp Chủng nổi tâm nghĩa hiệp, lên tiếng bảo vệ lão nhân mà không sợ liên lụy. Bấy giờ thì lão nhân đã kiệt sức, sắp trút hơi thở cuối cùng, cảm nghĩa cậu bé bèn cho cậu pho tượng đất gồm 18 tượng La hán trong túi của ông ta. Đây là pho bí pháp " La hán phục ma thần công " do các thần tăng Thiếu Lâm sáng tác và để lại.

- Tạ Yên Khách bèn nghĩ ra một kế kín đáo hại chết Cẩu Tạp Chủng bằng cách chỉ dạy cho Cẩu Tạp Chủng luyện tập bí pháp trên pho tượng, không theo thứ tự, để tẩu hỏa nhập ma. Nhưng Cẩu Tạp Chủng không có tạp niệm nên không bị tẩu hỏa trong thời gian dài luyện công. Cuối cùng thì luyện xong 18 đường dương công và 18 đường âm công, sắp đến thời điểm thành tựu một võ công " siêu thế "

B. Ý kiến

1. Cẩu Tạp Chủng là trẻ thuần lương, thông tuệ là nhân vật chính sẽ mở ra bí kíp Thái Huyền Kinh, mở ra chân lý, lại từ năm một tuổi lớn lên ở Khô Thảo Lỉnh, một đỉnh núi cô vắng, xa thế sự, một đỉnh núi của các loài cỏ khô; rồi năm 13 tuổi đến sống trên đỉnh Ma Thiên Nhai, cũng cô vắng, lạnh lùng của " phương trời ma quái " ( Ma Thiên Nhai ) và nội lực phát triển, trưởng thành ở đây. Hệt như giải thoát phải đến từ khổ đau; chân lý vượt ra từ cõi tà vạy : phải hiểu rõ khổ đế ( sự thật của khổ ) mới thấy con đường đi ra khỏi khổ, đến với giải thoát (diệt đế) của giáo lý nhà Phật.

2. Sự thật Tạ Yên Khách dấu mặt lấy đi hai thanh bảo kiếm của Thạch Thanh và Mẫn Nhu mà nhóm Tuyết Sơn đang giữ làm tin, khiến nhóm nầy quả quyết rằng đây là mưu gian của Thạch Thanh và Mẫn Nhu.

- Sự kiện " má má " đặt tên Cẩu Tạp Chủng khiến Tạ Yên Khách nghĩ rằng " má má " Mai Phương Cô bị chồng theo gái, bỏ rơi .

Hai sự kiện đó nói lên ý nghĩa : Kinh nghiệm thường nghiệm và tư duy logic rất dễ lầm lẫn : nó đúng mà không thật . Ở nhà Phật thì chân lý là cái gì vừa đúng ( chân ) và vừa thật ( như ) gọi là chân như.

3. Tạ Yên Khách và Cẩu Tạp Chủng là hai hình ảnh văn hóa tương phản :

- Tạ Yên Khách thì bận tâm về giá trị hình thức " quân tử ", " trượng phu ", mà hành xử lại bá đạo.

- Cẩu Tạp Chủng tự xem là phàm phu mà hành xử chân chất, hiền thiện, thể hiện đạo lý của Thánh hiền : " Hợp nội ngoại chi đạo " của Đại học.

Hình ảnh của chàng gợi lên ở người đọc một chút gì ngậm ngùi khi nhìn lại giá trị hình thức của nền văn hoá cũ.

4. Tạ Yên Khách đi vào giang hồ lâu ngày đã đánh mất cái tính chân chất thuần phác như được thể hiện ở con người Cẩu Tạp Chủng. Đây là ý nghĩa của " Tánh tương cận, tập tương viễn " mà đạo đức mang màu sắc Phật giáo ở Cẩu Tạp Chủng (tẩy sạch tâm lý cấu uế ) có thể làm sống lại ý nghĩa " cận đạo ":

- Ở Tạ Yên Khách, cái " ta " ( tự ngã ) và cái " của ta " được phát triển mạnh.

- Ở Cẩu Tạp Chủng, cái " ta " và cái " của ta " thì vắng mặt một cách tự nhiên.

Hai hình ảnh văn hóa tương phản ấy đã mở ra một cuộc đối thoại dài của Hồi truyện thứ ba, rất triết lý : Kim Dung đang nói triết lý bằng ngôn ngữ kiếm hiệp đầy thú vị . Thử nghe lại một mẫu đối thoại ngắn giữa hai người ấy :

" Gã ăn xin ăn xong cái này lại lấy cái khác, ăn hết thảy bốn cái bánh bao mới nói: "Cháu no rồi, không ăn nữa '.

Tạ Yên Khách ăn hết hai cái bánh rồi thôi, quay lại hỏi chủ quán : ' bao nhiêu tiền '

Chủ quán đáp :' Hai đồng một cái. Cả thảy sáu cái, cộng lại là mười hai đồng '

Tạ Yên Khách đáp : ' Không được. Phần ai ăn người ấy trả tiền. Ta ăn hai tấm, vậy ta trả bốn đồng là đủ.

Lão thò tay vào bọc toan móc tiền ra trả, nhưng sờ đi sờ lại mà chẳng còn một đồng nào ... Trong lúc Tạ Yên Khách chưa biết giải quyết cách nào, thì gã ăn xin đã móc trong bọc ra một thỏi bạc, đưa cho chủ quán nói : ' Tất cả mười hai đồng, để cháu trả cho '.

Tạ Yên Khách chưng hửng hỏi : ' Sao ? Ngươi lại trả tiền cho ta ư ?'

Gã ăn xin cười đáp : ' Ông không có tiền mà cháu có, cháu mời ông ăn mấy cái bánh bao phỏng có chi đáng kể ? '. Chủ quán cũng lấy làm kinh ngạc, lấy mấy miếng bạc vụn và mấy xâu tiền đồng thối lại. Gã ăn xin thu tiền cất vào bọc, rồi nhìn Tạ Yên Khách xem lão sai bảo gì.

Tạ Yên Khách bất giác nở một nụ cười chua chát, nghĩ thầm : ' Tạ mỗ cố chấp thành tính, trước nay dù là một miếng cơm, một ly nước cũng chẳng chịu ơn ai, không ngờ hôm nay lại để một gã ăn xin mời ăn hai cái bánh bao... ' ( tập I.tr.92-93)

Nụ cười chua chát ấy của Tạ Yên Khách là nụ cười về tinh thần bảo thủ, cố chấp của một nét văn hóa cũ !

5. Nếp văn hoá ở núi Hùng Nhĩ của Mai Phương Cô " má má ", hình như có sự hiện diện của bồ tát Quán Thế Âm, trí tuệ vô ngã và lòng từ bi cứu khổ, đã để lại ảnh hưởng trong tâm thức hồn nhiên của Cẩu Tạp Chủng khi Cẩu Tạp Chủng phát ngôn rằng :

" Gã ăn xin đáp : Sao lại ăn cắp ? Vừa rồi một vị thái thái giống Quan Âm áo trắng đã cho cháu " ( tr. 94 )

và :" Ông ăn táo đi ! Ông ( chỉ Tạ Yên Khách ) không phải là người, cũng không phải ma quỷ, chẳng lẽ lại là Bồ Tát ? Nhưng cháu thấy cũng không giống " ( tr. 97 ).

Nét văn hóa Phật giáo nhẹ nhàng ấy dần dần in đậm vào tâm thức Cẩu Tạp Chủng, trước khi khởi động công phu " La hán phục ma thần công ", để thành tựu việc khai mở chân lý của Thái Huyền Kinh trên đảo Hiệp Khách !

6. Ý Nghĩa biểu tượng của 18 tượng La hán :

Trong Phật giáo, La hán là hàng đệ tử Đức Phật đã hàng phục được lòng tham dục cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, và hàng phục được sự đắm trước ( chấp thủ ) lòng dục, thấy biết, giới luật sai lầm, và các học thuyết chủ trương có tự ngã ( dù dưới bất cứ dạng thức nào ). Kinh Phật dạy có 18 dòng Ái ( và Thủ ) liên hệ nội tâm, và 18 dòng Ái ( và Thủ ) liên hệ ngoại cảnh :

Liên hệ nội tâm : Khi nào có ý niệm ta có mặt thì sẽ có những tư tưởng : ta có mặt trong đời này; ta có mặt như vậy, ta có mặt khác như vậy; ta không thường hằng; ta thường hằng; ta phải có mặt không ? ta phải có mặt trong đời này không ? ta phải có mặt như vậy; ta phải có mặt khác như vậy; mong rằng ta có mặt; mong rằng ta có mặt trong đời này; mong rằng ta có mặt như vậy; mong rằng ta có mặt khác như vậy; ta sẽ có mặt; ta sẽ có mặt trong đời này; ta sẽ có mặt như vậy; ta sẽ có mặt khác như vậy.

Liên hệ ngoại cảnh : Khi nào có tưởng: ' Do cái này, ta có mặt; thì sẽ có các tư tưởng : do cái này, ta có mặt trong đời này ( tương tự trên )

( Tăng chi kinh, II, PTS, London, 1992, tr.226 )

Nội dung của 18 dòng Ái ( Thủ ) trên là nội dung của Tập đế ( nguyên nhân của khổ ) trong Tứ Diệu đế của Phật giáo ( được biểu tượng qua chuổi hạt tay 18 hạt hay 36 hạt ).

Đại bi lão nhân tặng cho Cẩu Tạp Chủng 18 Tượng La hán là trao cho công phu loại trừ hết thảy các loại chấp thủ ngã tưởng mà Kinh Kim Cang Bát Nhã của Đại thừa Phật giáo đã đề cập, bao gồm tám loại : ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sanh tưởng, thọ giả tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng và phi tưởng :

- Ngã tưởng : tin tưởng có mặt một tự ngã khác với năm uẩn như khi nói : cái này là của tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của tôi.

- Chúng sinh tưởng : tin tưởng có một cá thể độc lập, liên tục và đồng nhất với chính nó qua thời gian; cá thể đó phân biệt các phần tố bên trong cá thể khác biệt với những gì ở bên ngoài.

- Thọ giả tưởng : tin tưởng có một sức mạnh hợp nhất và sinh động bên trong cá thể, tồn tại từ khi sinh cho đến khi chết.

- Nhân tưởng : tin tưởng có một thực thể thường hằng, luân hồi, tái sinh từ kiếp nầy qua kiếp khác.

- Pháp tưởng : tin tưởng có sự hiện hữu thật sự của các pháp độc lập.

- Phi pháp tưởng : ( không pháp tưởng ): tin tưởng có không pháp độc lập với hiện hữu

- Tưởng : Tưởng thường quyết định tính chất cho sự vật vốn không có trong thực tế.

- Phi tưởng : nếu biết tưởng là không thật mà chủ trương không có tưởng, không tác tưởng-các bậc Thánh, Bồ Tát vẫn tác tưởng mà vẫn giác tỉnh vô ngã, vẫn không chấp thủ.

Đây là công phu tu tập chủ yếu của Phật giáo nói chung, và Kim Cang Bát Nhã nói riêng.

7. Tu tập công phu loại trừ các tưởng tự ngã :

- Bước đầu hành giả cần tẩy sạch các tâm lý cấu uế, bất thiện như tham lam, sân hận, si ám, đố kỵ, kiêu mạn, dối gạt, ác hại, v.v� nếu không thì không thể tu tập thành tựu các tâm thiền định ở bước thứ hai.

Đây là nội dung mà Kim Dung giới thiệu Cẩu Tạp Chủng với tâm lý trong sáng, giản đơn, không có thất tình, lục dục, hành " La hán phục ma thần công " dễ dàng thành tựu, không bị tẩu hỏa, như Tạ Yên Khách đã nhận xét :

" Thằng bé này đầu óc chưa được mở mang, chuyện đời hoàn toàn không biết, trong lòng không có tạp niệm, vì thế mới không bị tẩu hỏa nhập ma "( tr. 136 )

Công phu " La hán phục ma " quả là công phu giáo dục các tâm hồn, các cá nhân cho một xã hội đạo đức, nhân ái, đầy tình người !


V. Hồi 4 : Bang chúa rừng Lạc bang

A. Tóm tắt hồi 4
-Tại Ma Thiên Lãnh, Cẩu Tạp Chủng vừa luyện xong 18 đường âm công và 18 đường dương công của " La hán phục ma thần công ", do không biết điều hòa kinh mạch âm dương nên bị "tẩu hỏa", may kịp lúc Bối Hải Thạch, và thêm các đại cao thủ Trường Lạc bang, xuất hiện cứu cấp, tạm thời qua được cơn nguy cấp ; Bối Hải Thạch lầm tưởng Cẩu Tạp Chủng là Thạch Phá Thiên, bang chủ, nên rước về điều dưỡng ở cung Trường Lạc.

- Tại cung Thường Lạc, Bối Hải Thạch tiếp tục trị liệu mỗi ngày. Đinh đỉnh Đang đang, người tình của Thạch Phá Thiên, cho uống Huyền Băng Bích Hỏa Tửu ( loại rượu rất trân quý của võ lâm, dùng để trì hoãn lại sự tương giao của hai luồng khí âm dương trong nội thể ), nên Cẩu Tạp Chủng hồi tỉnh.

- Vào lúc hai luồng âm dương khí dâng đầy ở huyệt Đản Trung ( giữa ngực ) thì Triển Phi hương chủ, kẻ thù bị cướp vợ của Thạch Phá Thiên, xuất hiện đánh một chưởng mạnh vào huyệt Đản Trung để kết liểu đời Thạch Phá Thiên. Không ngờ, chưởng nầy đã giúp Cẩu Tạp Chủng điều hòa được khí huyết, thành tựu thần thông " La hán phục ma " lên đến đỉnh điểm. Triển Phi hương chủ thì bị phản lực mà bị gảy một cánh tay và trọng thương.

Cẩu Tạp Chủng, với từ tâm, vô hại tâm, đã bao che cứu tội và trị thương cho Triển Phi.

Thật là sự lạ đầy kinh dị !

B. Ý kiến

1. Lạc bang là từ ngữ Phật học chỉ cõi nước của Đức Phật A-Di-Đà. Ở đó, vắng mặt mọi thứ khổ đau, mãi mãi hạnh phúc, yên vui nên gọi là Trường Lạc.

Bối Hải Thạch và các Hương chủ bang nầy thì bản chất hành ma đạo. Do vì tránh nạn dự hội yến Lạp Bát ở Hiệp Khách đảo nên tráo dựng bang chủ Thạch Phá Thiên; sau khi Thạch Phá Thiên ( Thạch Trung Ngọc ) ẩn trốn, Bối Hải Thạch lại mạo dựng Cẩu Tạp Chủng.

Thật là ý vị ! tâm chân của Cẩu Tạp Chủng lại cần được nuôi dưỡng, phát triển tại ma xứ nầy !

2. Cẩu Tạp Chủng : sức mạnh của vô dục,vô chấp :

- Bản tính của Cẩu Tạp Chủng là minh mẫn, chân thật, thuần lương, vô dục và không chấp nệ các thị phi.

- Mọi người đều lầm chàng là Thạch Phá Thiên ( trừ Bối Hải Thạch sau khi điều thương cho chàng ) và bày tỏ thái độ tương hệ khác nhau : Cùng một đối tượng mà mỗi người ở vị trí khác nhau thì nhìn khác nhau. Cả tự thân Cẩu Tạp Chủng cũng không thật sự biết rõ gốc gác của mình, chỉ lờ mờ chàng là chú bé ở đỉnh Hùng Nhĩ, đùa giỡn với chó A-hoàng.

Nhờ có tâm lý vô dục, vô chấp ấy, Cẩu Tạp Chủng đã thành tựu không khó khăn thần thông siêu đẳng của " La hán phục ma ". Bước thành tựu còn tiến xa, xa nữa khi chàng không chấp thủ cả kết quả thành tựu. Khi Bối Hải Thạch nói :

" Chúc mừng bang chúa! Thần công cái thế của bang chúa đã luyện thành rồi "

Cẩu Tạp Chủng đã hồn nhiên hỏi lại :

" Cái gì ... cái gì là cái thế thần công ? "

Đây, thực sự là ngôn ngữ của Kinh Kim Cang khi diễn đạt sự chứng đắc bốn Thánh quả : Tu-đa -hoàn, Tư-đà-hàm , A-na-hàm, và A-la-hán :

" Đức Phật hỏi :' Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao, vị Tu-đà-hoàn có nghĩ rằng : Ta đã chứng đắc Tu-đà-hoàn quả chăng ?-Tôn giả Tu-bồ-đề đáp : Quả thật không, bạch Thế Tôn. Tại sao? Bởi vì, bạch Thế Tôn vị ấy không có chứng đắc bất cứ pháp nào. Cho nên vị ấy được gọi là Tu-đà-hoàn...

- " Bởi vì chưa có một pháp nào chứng đạt được quả Tư-đà-hàm. Đấy là lý do tại sao vị ấy được gọi là Tư-đà-hàm "

- ... ( Tương tự đối với quả A-na-hàm, A-la-hán ... )

3. Hai cảnh giới thiền định :

- Tạ Yên Khánh, trên Ma Thiên Lãnh, khổ luyện nội công đạt đến mức " thân, ý, khí " điều hợp, vật ngã đều quên : đây là một loại thiền định có sức mạnh tập trung và có thần lực của một cảnh giới định sâu, nhưng tâm ý của ông còn vướng vào thị phi, tự ngã, nên theo Phật học gọi là tà định. Loại định nầy vắng mặt trí tuệ và tâm đại bi.

- Cẩu Tạp Chủng đạt định " La hán phục ma " với trí minh mẫn, không dục vọng, không dính mắc, đầy nhân ái, theo Phật học đây là loại chánh định. Chỉ loại thiền định nầy mới có thể phát triển đến cao điểm, giáp mặt chân lý, giải mã được " Thái huyền kinh "


VI. Hồi 5 : Đinh đinh Đang đang

A. Tóm tắt Hồi 5
- Sau khi luyện xong phần nội lực theo các huyệt đạo và kinh mạch của 18 tượng La hán đất, tình cờ Cẩu Tạp Chủng đánh vỡ lớp đất bọc ngoài tượng, khám phá ra 18 tượng gỗ ở bên trong, chỉ thuần kẻ đường kinh mạch để vận hành công lực. Chàng liên tục ba ngày đêm luyện nhuần nhuyễn hết chỉ dẫn của 18 tượng gỗ và thực sự thành tựu " Phục ma thần công ", vận công theo ý muốn - nhiều cao tăng Thiếu Lâm, do quá ham muốn luyện công đã từng thất bại trong việc luyện tập La hán phục ma thần công nầy.

- Các người ở Trường Lạc bang vẫn đinh ninh Cẩu Tạp Chủng là Thạch Phá Thiên, nên thường sợ hãi chàng vì kinh nghiệm về xử xự thất thường và tàn ác của Thạch Phá Thiên, hoặc vì tánh " đa tình " ( trăng nguyệt ), háo sắc của chàng Phá Thiên. Tất cả cung cách và ngôn ngữ hiền hòa, lịch sự của Cẩu Tạp Chủng vì thế bị hiểu lầm là ngôn ngữ trêu chọc, mỉa mai, độc địa. v.v... khiến chàng không thể hiểu ai, và không ai hiểu chàng .

- Đinh đinh Đang đang đến kéo chàng ra ngoài đùa cợt, vì vị nể nàng đã từng săn sóc chàng khi điều thương, chàng đi theo nàng về gặp lão gia gia Đinh Bất Tam. Nhận ra nội lực hùng hậu, kỳ đặc của chàng, Đinh Bất Tam hoan hỷ chấp nhận chàng là bạn trai của cháu gái Đinh Đang của lão và ngõ ý kén chàng làm cháu rễ...

B. Ý kiến

1. Hai công phu hành thiền :

- 18 pho La hán, phần đất là phần chỉ dẫn vận khí qua các huyệt đạo và kinh mạch để thành tựu nội lực. Đây là hình thức hệt với công phu tu tập Thiền chỉ ( Samatha ) của Thiền định Phật giáo. Phần này, trong công phu Thiền định tà giáo cũng có.

- 18 pho La hán bằng gỗ là phần chỉ dẫn kinh mạch để luyện công, vận dụng nội lực đã có theo các đường kinh mạch.

Phần nầy, tâm tập chú và tỉnh giác sâu hơn. Đây là bước công phu hành Thiền quán (Vipassana ), hay Chỉ-Quán song hành, của Thiền định Phật giáo.

Kim Dung giới thiệu : nếu hành giả biết cách thu phát nội lực theo ý muốn, thì chỉ lực phóng ra sẽ như là đường kiếm báu, biểu hiện một sức mạnh vô song. Đây là biểu tượng của trí tuệ giải thoát có thể trực tiếp cắt đứt các phiền não, các tâm lý trói buộc, mà không chỉ chế ngự chúng.

Phần thiền quán nầy nếu liên tục được phát triển, thì sẽ đi tới điểm giải mã bí kíp của "Thái Huyền Kinh ".

2. Ý nghĩa " Phục ma "

- Ma là chỉ các việc làm của thân, lời, ý sai lầm dẫn đến hại mình, hại người, đem phiền não, khổ đau đến cho mình và người.

- Ma còn có nghĩa là chỉ những gì ngăn che tâm thức con người khỏi sự thật, chân lý, giải thoát. Dục vọng, chấp ngã, chấp trước các cảm thọ, tri kiến, đều thuộc đường ma, theo nghĩa rộng hơn.

Phục ma là hàng phục, chế ngự, loại trừ các tác nhân vừa đề cập ở trên.

Thần Công " La hán phục ma ", vì thế, là loại sức mạnh của tâm lý, định lực giúp hành quả phát triển thiền quán, trí tuệ để cắt đứt các nhân tố gây ra khổ đau cho mình và người, được diễn đạt như võ công siêu đẳng có thể đánh bại dễ dàng các loại võ công khác trên giang hồ.

Tác giả " Hiệp Khách Hành "đã giới thiệu " La hán phục ma thần công ", do các thần tăng Thiếu Lâm sáng tạo, chói sáng trên võ lâm như là văn hóa tâm thức của Phật giáo chói sáng giữa vùng văn hóa của xưa nay, phải chăng ?

3. Sự chân thật và định kiến :

- Cẩu Tạp Chủng sau khi hành " La hán phục ma thần công " theo 18 hình tượng gỗ thành công thuần thục, tâm thức trở nên rất định tỉnh, sáng suốt, đã cố gắng nói lên sự thật chàng không phải là Thạch Phá Thiên, nói lên một cách rất chân thành, nhưng không được mọi người tin tưởng lời nói của chàng, mà phản ứng bất thuận lợi đối với chàng :

- Thị Kiếm thì cho rằng chứng " tẩu hỏa " đã khiến chàng quên mất quá khứ, cứ đề phòng các tật xấu của Thạch Phá Thiên xuất hiện nơi chàng.

- Trần Hương chủ thì hiểu những lời lẽ thân tình của chàng như là quyết định cắt đứt mạng sống của chính mình...

- Hoa Vạn Tử thì nhìn chàng như là kẻ " hái hoa " và phản ứng rất là khó hiểu...

- Đinh Đang thì cứ nhất quyết đối xử với chàng như Thạch Trung Ngọc, dù chàng đã nhiều lần chân thật xác nhận chàng là Cẩu Tạp Chủng ...

Tình cảnh trở nên rối rắm : Cẩu Tạp Chủng ngạc nhiên, bức tai về những gì người chung quanh xử sự với chàng. Những người chung quanh cũng đầy kinh ngạc về thái độ xử sự của chàng. Tất cả rối rắm chỉ do định kiến của mọi người về Thạch Phá Thiên, và xem chàng là Thạch Phá Thiên.

Cũng thế, khi con người đã bị ảnh hưởng sâu đậm về các giá trị của một nền văn hóa cũ, thì khó mà tiếp thu tiếng nói mới mẻ dù là thật, chân và hay. Theo thuật ngữ của Phật học, đây được gọi là " điên đảo tình " ( sentimental inversion ).


VII. Hồi 6 : Vết thương

A. Tóm tắt Hồi 6
- Liên tiếp nhiều sự hiểu lầm chết người, nhiều cuộc xung đột lời lẽ và đao kiếm xẩy ra do sự nhận lầm cái thân tướng giống nhau giữa Cẩu Tạp Chủng và Thạch Phá Thiên (Thạch Trung Ngọc ) :

Dù thành thật xác nhận chàng không phải là Thạch Ca của Đinh Đang, Đinh Đang cũng nhất mực đòi cưới chàng, nhất là khi nhận ra vết thẹo trên vai Cẩu Tạp Chủng nằm đúng vị trí mà Đinh Đang đã một lần cắn vào vai Thạch Trung Ngọc ( vết thẹo trên vai Cẩu Tạp Chủng là do Bối Hải Thạch giả tạo khi chàng đang cơn sốt mê )

Dù Cẩu Tạp Chủng rất chân thật nói chàng không có mối liên hệ nào với bang Tuyết Sơn, thì vô minh ( do tin đồn và thị giác đánh lừa ) của nhóm Bạch Vạn Kiếm vẫn cho là lời lẽ của chàng là xảo ngôn, bội nghĩa...

- Sự dối gạt của Bối Hải Thạch, và sự mê muội, sân si, hẹp lượng của các người khác đã dựng nên bi kịch về cái tướng dẫn đến cảnh máu rơi...

B. Ý kiến

1. Cái tướng trạng là hư dối :

- Cái na ná của thân tướng Cẩu Tạp Chủng và Thạch Trung Ngọc chưa có cơ sở để kết luận cả hai là một người duy nhất.

- Dù hai chàng ấy giống nhau cho đến từng vết thẹo trên thân thì hai người vẫn là hai cá thể khác biệt, có hai thế giới cảm xúc và tâm thức hoàn toàn khác nhau.

Việc nhận diện con người qua ngoại hình, hay việc xác định giá trị hành động qua các biểu hiện bên ngoài của hành động, là một bi kịch của máu và nước mắt.

Vết thương trong Hồi truyện thứ 6 nầy không phải là vết thương trên vai, trên chân của Cẩu Tạp Chủng, mà là vết thương trong nhận thức và văn hóa con người !

Đây là điều mà Kinh Kim Cang đã dạy : sự thật là ở thực tại, ở cái tâm, mà không ở nơi cái tướng. Các tướng trạng đều là không thật ( Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng )

Sự nhận lầm về giá trị của các hiện hữu qua các tướng trạng ấy, giáo lý nhà Phật gọi là vô minh. Chính vô minh là đầu mối của các rối ren của con người và xã hội phát sinh ra vạn nổi sầu khổ, hệt như sự nhận lầm lừng lựng về Cẩu Tạp Chủng !

2. Chủ quan của các quan điểm và giới hạn của các quan điểm :

- Như Đinh đinh Đang đang với chủ quan qua kinh nghiệm các giác quan của mình đã nhận lầm rất lớn về Cẩu Tạp Chủng dẫn đến cảnh ngộ cưới hỏi, yêu thương lỡ khóc lỡ cười; cũng thế, các chủ trương của các lý thuyết ở đời cũng chỉ dẫn đưa con người đến một kết cục lỡ khóc lỡ cười !

- Như Bạch Vạn Kiếm và nhóm kiếm sĩ Tuyết Sơn với chủ quan qua kinh nghiệm các giác quan, qua các báo cáo điều tra, và qua cả vết thẹo tình cờ mang dấu hoa mai nơi chân của Cẩu Tạp Chủng, đã dẫn đến bi kịch xung đột đao kiếm rất tang tóc; cũng thế, các chủ trương của các lý thuyết dựa vào kinh nghiệm, chứng nghiệm giới hạn cũng chỉ dẫn dắt con người đến các kết cục bi kịch đầy bi thương !

Giáo lý nhà Phật nói về sự thật vô ngã, thái độ sống vô chấp, nhân ái, từ bi chỉ nhằm vào mục đích diệt trừ nguyên nhân của khổ đau, đem lại hạnh phúc, an lạc cho đời, mà không nhất thiết dừng lại ở một chủ trương, chủ thuyết nào, nên sẽ không dẫn dắt con người đến một kết cục ki bịch nào. Đây là những gì mà người viết nghe âm vọng từ ngôn ngữ tiểu thuyết Hiệp Khách Hành của Kim Dung.

3. Nguyên nhân của các hiện hữu :

- Quần hào nhận lầm Cẩu Tạp Chủng là Thạch Trung Ngọc đặc biệt là qua vết thẹo hoa mai do kiếm pháp của Tuyết Sơn để lại trên chân của Thạch Trung Ngọc. Nếu tìm hiểu rõ nguyên nhân của vết thẹo trên chân của Cẩu Tạp Chủng là do Bối Hải Thạch giả tạo thì sự thật sẽ phơi bày. Cũng vậy, nếu biết rằng vết thẹo trên vai của Cẩu Tạp Chủng là do Bối Hải Thạch tạo ra, thì Đinh Đang đã không nhầm lẫn " đấng " lang quân !

Đây là bài học tìm hiểu rõ nguyên nhân của một hiện hữu : theo giáo lý nhà Phật, khi chưa hiểu rõ nguyên nhân của Khổ thì chưa hiểu rõ sự thật của Khổ, và do đó chưa thể thấy con đường dẫn ra khỏi khổ.

4. Các duyên tạo nên vô minh hay sự nhận lầm :

- Bạch Vạn Kiếm nhận lầm là do tức giận, nóng vội chưa kiểm chứng và lập luận kỷ về sự việc và nguyên nhân của sự việc.

- Đinh đinh Đang đang nhận lầm là do dục ái, nông nổi khiến mù quáng qua các lập luận.

- Triển Phi hương chủ nhận lầm là do lòng căm hờn sâu nặng đánh mất sự thận trọng và sáng suốt.

- Thị Kiếm nhận lầm là do dễ dãi, lười biếng phân tích, suy luận, và do cả lòng đầy nghi ngờ đối tượng.

- Tất cả bị nhận lầm là do bị ám ảnh bởi các tướng, mà xem nhẹ cái tâm ( tà kiến, tà niệm ).

Các duyên ấy, theo Phật học, là nội dung của các tâm lý bất thiện, cấu uế do năm thứ ngăn che tâm, thức gây ra đó là :

- Trạo cử, tâm lý thiếu ổn định.

- Hôn trầm : tâm lý thụ động, mệt mõi, lười biếng.

- Dục : tâm lý ham muốn sắc, thanh, hương, vị, và xúc chạm...

- Sân : tâm lý nóng nảy, sân hận.

- Nghi : tâm lý si ám, nghi ngờ, do dự.


VIII. Hồi 7 : Tuyết Sơn kiếm pháp

A. Tóm tắt hồi 7
- Bạch Vạn Kiếm yêu cầu Thạch Phá Thiên ra khỏi sảnh đường Mãnh Hổ để đấu kiếm nhằm thanh lý môn hộ. Nhóm Trường Lạc, Đinh Bất Tam và Đinh Đang đều giục Cẩu Tạc Chủng nhận lời, bởi tin rằng với nội lực quá hùng hậu của chàng thì chỉ trong vài chiêu đã có thể đánh gục Bạch Vạn Kiếm.

- Ngoài sảnh đường, với bản tánh hồn hậu, Cẩu Tạp Chủng cầm thanh kiếm do Trần hương chủ trao mà tần ngần chưa biết xử lý ra sao ( chàng chưa hề học kiếm pháp ) thì Bạch Vạn Kiếm đã lẹ tay xuất kiếm áp đảo, điểm huyệt chàng và uy hiếp bang Trường Lạc. Bạch Vạn Kiếm kẹp Cẩu Tạp Chủng phi hành về phía thành Lăng Tiêu. Uông Vạn Dựt và tám tay cao thủ Tuyết Sơn đều bị Bối Hải Thạch khống chế, điểm huyệt, bắt giữ. Do huyệt đạo bị phong tỏa nhẹ, Uông Vạn Dựt tự giải huyệt và phi hành theo Bạch Vạn Kiếm để hỗ trợ.

- Một nhóm, gần 20 kiếm sĩ, của Tuyết Sơn đang đóng quân ở một thảo am giọc đường chờ Bạch Vạn Kiếm trở về. Nhóm nầy đã luyện kiếm qua đêm để gia tăng khả năng đối phó khi hữu sự. Cẩu Tạp Chủng, rất thông tuệ, chỉ quan sát mà đã làu 72 kiếm chiêu của Tuyết Sơn, dù trước đó chưa từng tập luyện.

- Bấy giờ Thạch Thanh-Mẫn Nhu xuất hiện dòi lại hai thanh bảo kiếm mà nhóm Tuyết Sơn đã đánh mất. Cuộc đọ kiếm bắt đầu. Bạch Vạn Kiếm không địch lại song kiếm của Thạch Thanh-Mẫn Nhu. Cẩu Tạp Chủng tự giải khai huyệt đạo và đòi đứng về phía Bạch Vạn Kiếm để hai đấu hai cho cân. Cuộc đấu giữa Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm thì cân tài, càng đấu càng nể vì nhau. Mẫn Nhu và Cẩu Tạp Chủng thì so kiếm như là cảnh mẹ dạy kiếm cho con đầy tình cảm chan chứa.

- Lúc ngọn đèn cầy chợt tắt ( cạn ), Cẩu Tạp Chủng vô ý sấn người tới lúc bà Mẫn Nhu chưa kịp rút nhanh kiến về, nên bị thương nhẹ ở ngực. Bấy giờ, Đinh Bất Tam và Đinh Đang đang phục ở gầm bàn chờ cứu Cẩu Tạp Chủng. Đèn tắt là thời điểm thuận lợi để Đinh Bất Tam hành sự.

Cẩu Tạp Chủng bắt đầu một bước " nổi trôi " mới.

B. Ý kiến

1. Điều nghich lý :

- Từ thái độ sàm sỡ của thiếu niên Thạch Trung Ngọc dẫn đến việc cô A-Tú ( 13 tuổi ) tự vẫn để bảo toàn danh tiết người con gái; thân mẫu A-Tú trở nên cuồng trí; Bạch Phu nhân giận lẫy chồng bỏ nhà ra đi bbiệt tích;

Bạch Tự Tại tức bực lấy đứt một cánh tay của người đệ tử giỏi nhất của mình ( thầy dạy kiếm cho Thạch Trung Ngọc ); Bạch Vạn Kiếm dẫn nhiều kiếm sĩ Tuyết Sơn đi đốt phá Thạch gia trang ( nhà của bố mẹ Thạch Trung Ngọc ) và lùng kiếm Thạch Trung Ngọc để thanh lý môn hộ đã hy sinh mất thêm nhiều cao thủ huynh đệ...

Hầu như con người phải chết và phải khổ vì một giá trị ước lệ rất mơ hồ của văn hoá Tuyết Sơn. Thật là điều nghịch lý !

- Cẩu Tạp chủng, một thiếu niên thuần lương, nhân ái và thông sáng, vô cớ trở thành nạn nhân của các thái độ hành xử nghịch lý trên.

Hầu như niềm tin của tác giả để hoá giải điều nghịch lý ấy còn dấu kín ở mười tám tượng La hán phục ma ?

2. Tám cơn gió lay động tâm thức :

- Các cao thủ võ lâm trên giang hồ thường giáp mặt với tám cuồng phong ở đời là : phải, trái; được, mất; khen chê, khổ, lạc. Tám ngọn cuồng phong ấy đã dấy lên ở kiếm phái Tuyết Sơn, Ttrường Lạc Bang và nhiều vùng liên hệ như ở thị trấn Hầu Giám Tập, tạo nên các rối ren dây chuyền. Chỉ duy có một thiếu hiệp thành tựu " La hán phục ma thần công " là có tâm hồn phẳng lặng để lại một ấn tượng sâu sắc nhất.

Thuật ngữ nhà Phật gọi tám cơn cuồng phong ấy là " Bát phong " và " Bát phong xuy động ", hẳn là có mối liên hệ cảm xúc của tác giả lúc xây dựng các hồi truyện Hiệp Khách Hành !

3. Nghìn năm tay trắng hay Bài học về gốc gác của Cẩu Tạp Chủng :

- Cẩu Tạp Chủng vốn là bé Thạch Trung Kiên, con đẻ của Thạch Thanh và Mẫn Nhu; bị người hận tình Mai Phương Cô trên núi Hùng Nhĩ bắt đi từ năm một tuổi, và tráo vào xác chết bầy nhầy của một em bé khác. Điều nầy khiến Thạch Anh và Mẫn Nhu đinh ninh rằng Thạch Trung Kiên đã chết.

- Cẩu Tạp Chủng có thân tướng hao hao giống Thạch Trung Ngọc. Trong thời gian Thạch Trung Ngọc bị Bối Hải Thạch bắt và dựng lên làm bang chủ Trường Lạc Bang để đi dự hội yến Lạp Bát ở Hiệp Khách đảo, rồi trốn biệt tích ở một lầu xanh, Cẩu Tạp Chủng đã bị nhiều phái nhận lầm là Thạch Trung Ngọc ( hay Thạch Phá Thiên, bang chủ Trường Lạc ). Các cuộc tranh cải và tranh giành Cẩu Tạp Chủng xẩy ra với các nhân chứng, vật chứng, luận chứng có vẻ hợp lý đến độ Cẩu Tạp Chủng cũng mơ hồ về gốc gác của chính mình, nghĩ rằng " má má " của mình là Mai Phương Cô ở Hùng Nhĩ.

Với một con người cụ thể như thế mà qua vài sự " tráo trở, lằng nhằng " giang hồ đã khó xác định gốc gác, huống nữa là cuộc đi tìm " hạt nguyên sơ " giữa một vũ trụ mênh mang qua một hệ thống máy móc và tư duy phức tạp ? (!) Cuộc đi tìm ấy sẽ mãi là nghìn năm tay trắng !

Thế giới vốn là một trường tương quan của nhân duyên. Đây là bài học kinh nghiệm của tập truyện, và của Phật giáo .
IX. Hồi 8 : Thằng Ngốc

A. Tóm tắt Hồi 8
- Đinh Bất Tam cứu Cẩu Tạp Chủng khỏi tay Bạch Vạn Kiếm, nhưng lòng đầy thất vọng về võ công và cách xử sự quá hiền lành, chân chất của chàng, mà ông gọi là quá ngốc nghếch, định sẽ giết chàng nếu trong vòng 10 ngày mà không đánh bại được Bạch Vạn Kiếm.

- Đinh đinh Đang đang cầu xin ông tha mạng cho chàng không được, bèn dạy cho chàng 18 đường cẩm nã thủ gia truyền của dòng họ Đinh để phòng thân, và hi vọng là Đinh Bất Tam đổi ý.

- Đến ngày thứ 10, Đinh Đang bày mưu thuê một đám dân dã lên thuyền đòi yểm trừ ma qủy Đinh Bất Tam. Giận quá ông ra cước giết liền một hơi ba người, rồi chợt biết mình mắc vào quỷ kế của đứa cháu gái. Ông bèn chờ đến thời điểm cuối ngày sẽ móc mắt, bẻ tay Cẩu Tạp Chủng, thay vì giết chàng.

- Đing Đang thoáng thấy xa xa một chiếc thuyền nhỏ ngược chiều đi lại, bèn làm ra vẻ thất vọng đòi tự mình giết Cẩu Tạp Chủng cho xong chuyện, hơn là có một người chồng tàn tật; nàng điểm huyệt chàng, quấn chăng quanh mình chàng và trói gô lại; khi chiếc thuyền nhỏ đến gần, nàng múa dao đâm chàng-thật ra là giả bộ che mắt Đinh Bất Tam -, vừa lẹ tay ném chàng sang thuyền nọ để giúp chàng thoát nạn.

- Đinh Bất Tam hậm hực, giận dữ đứa cháu gái, thất vọng nhìn chiếc thuyền đi !

Thế là, Cẩu Tạp Chủng lại đi vào một rắc rối khác của cuộc sống !

B. Ý Kiến

1. Cái ngốc của Cẩu Tạp Chủng :

- Đinh Bất Tam gọi Cẩu Tạp Chủng là thằng ngốc do các hành xử dưới đây của chàng :

- Không giỏi võ công ...

- Không đủ tàn nhẫn để thắng người ...

- Không giỏi đao kiếm đủ để ông ta tự hào ...

- Không biết " trăng hoa " với Đinh Đang ...

- Có lương tâm tốt, chân chất là kẻ ngu dại !

- Suy nghĩ huyễn hoặc, không thiết thực như khi chàng nói :

" Tốt hơn hết là Đinh Đang dạy ta thứ công phu không thể đả thương hoặc đánh chết người ta, đồng thời đừng để đối phương đánh mình chết hay bị thương, mọi người đều hoan hỷ kết bạn với nhau, đừng oán thù gì nữa " ( tập 2, tr.127 )

- Đinh Đang chán ngán chàng vì bởi :

- Không láu lỉnh, trêu ghẹo con gái...

- Không biết tỏ tình với nàng...

-Không biết sống vị kỷ cho mình...

- Không biết dối gạt, quyền biến...

2. Tâm lý Đinh Bất Tam và Đinh Đang

- Đinh Bất Tam sống chẳng lao động, nghề ngỗng gì, hẳn là tiền của chi tiêu lấy của thiên hạ ?

Tánh hiếu thắng, kiêu mạn, ngông cuồng, những điều gọi là danh dự, thủ tín, tiếng tăm của nhà họ Đinh đều là những tư duy nửa vời, điên đảo.

Giá trị tốt nhất cần bảo giữ là tình người, lòng nhân ái, tôn trọng sự sống, thì Đinh Bất Tam lại chà đạp, coi nhẹ, giết người một cách lạnh lùng tùy hứng. Ông xây dựng một tự ngã Đinh Bất Tam rất kỳ quái !

- Đinh Đang, cháu gái Đinh Bất Tam, thì nhan sắc, thông minh, nhanh nhẹn quyền biến, nhưng cũng chỉ là một loại tâm lý bệnh hoạn, vị kỷ : chỉ biết sống thỏa mãn các dục vọng của bản thân, mà không cần biết đến khổ đau của người khác, xem việc giết người như trò đùa, không đau xót.

3. Chọn lựa

Tác giả vẽ ra hai mẫu hình tâm lý tương phản giữa Cẩu Tạp Chủng và Đinh Bất Tam, Đinh Đang để độc giả thấy rõ những giá trị tâm lý nào là cần thiết cho xã hội, văn hoá nhân văn và trí tuệ ? Hỏi ở đây có nghĩa là trả lời vậy.


X. Hồi 9 : Đòn bánh tét

A. Tóm tắt Hồi 9
- Để cứu Cẩu Tạp Chủng khỏi bị Đinh Bất Tam hại, Đinh đinh Đang đang trói gô chàng sau khi đã điểm huyệt, và ném chàng vào thuyền chở Sử bà bà cùng A Tú đang lướt ngược chiều. Bấy giờ, hai bà cháu Sử bà bà nằm yên bất động do bị " tẩu hoả " vì luyện công lạc đạo.

- Sử bà bà bảo A Tú lấy đao giết chàng ngay, ném xuống sông để tránh tiếng " xì xào " về sau. A Tú không thể hành sự do bản tính hiền hậu, phần khác là do hai cánh tay không thể cử động ...

- Lát sau, thuyền của Đinh Bất Tứ áp tới. Ông ta vốn thầm yêu trộm nhớ Sử bà bà từ tuổi thanh xuân mà ở goá. Lẹ như tên bắn, ông phóng qua thuyền Sử bà bà, lên giọng lè nhè. Hai bên đang khẩu chiến thì Cẩu Tạp Chủng, vốn đã nghe Sử bà bà bảo A Tú cùng nhảy sông tự vẫn nếu bị Đinh Bất Tứ xúc phạm, lên tiếng kêu cứu Đinh Bất Tứ ngăn cản.

- Nhận ra dấu tay cẩm nã thủ " Thiết sa chưởng " của cô cháu gái A Đang còn để lại trên mặt chàng thiếu hiệp, Đinh bất Tứ bật cười đắc chí, bứt giây trói cho chàng; rồi thử vài chiêu cẩm nã thủ và kinh ngạc về nội lực kỳ đặc của chàng...

- Sử bà bà nói khích khiến Đinh Bất Tứ động thủ đánh Cẩu Tạp Chủng. Đinh Bất Tứ bị phản lực mạnh, nghe mình mẩy tê buốt đến kỳ lạ, bèn biến chiêu đánh vào huyệt Đại truy để hạ gục chàng; không ngờ chính ông ta bị run bắn toàn thân, và bị hất văng qua một bên, rất chi bẽ bàng...

- Để gỡ gạc, Đinh Bất Tứ, cũng do Sử bà bà khích bác, chỉ cho Cẩu Tạp Chủng vài đường võ của mình để tái đấu trên thuyền. Ông ta lại bại cuộc...

- Cẩu Tạp Chủng giúp Sử bà bà và A Tú điều hoà kinh mạch cho đến khi toàn thân cử động được. Bấy giờ, do Đinh Bất Tứ ép Sử bà bà lên đảo của ông ta để dưỡng thương, bà liềân ôm A Tú nhảy tỏm xuống nước để chết. Cẩu Tạp Chủng phóng theo để cứu...

- Cả ba giạt vào bờ đảo Tử Yên gần đó. Cẩu Tạp Chủng giúp hai bà cháu điều thương và lánh trú trong một hang động ...

B. Ý kiến

1. Các ý tưởng điên đảo :

- Tâm lý chân chất, thuần thiện của Cẩu Tạp Chủng như một tấm gương soi rõ tâm lý của những người tiếp cận chàng. Các tâm lý tương ưng, đồng điệu với chàng như tâm lý Mẫn Nhu, A Tú là thiện; các tâm lý chỏi lại chàng, từ khước chàng, đều là bất thiện, điên đảo.

Tại Hồi 9, Sử bà bà nghĩ rằng giết chàng để tiết hạnh của cháu gái A Tú khỏi bị tổn thương là một suy nghĩ kỳ quái, điên đảo !

Sử bà bà dự tính cùng A Tú nhảy sông tự vẫn nếu Đinh Bất Tứ xúc phạm. Làm thế để biểu lộ lòng thanh bạch chung thủy của bà đối với Bạch Tự Tại. Đây là một suy nghĩ điên đảo khác. Chính các ý tưởng điên đảo về giá trị ấy là nhân tố chính gây ra các rối rắm trong kiếm phái Tuyết Sơn và lây can vào chốn giang hồ.

- Các suy nghĩ lẩm cẩm đầy kiêu mạn, hiếu thắng, si ái của Đinh Bất Tứ là một loại tâm lý điên đảo khác

Giáo lý nhà Phật dạy đó là các tà tưởng, tà tư duy dẫn đến khổ đau.

2. Thực tại không có chủ trương:

- Khi chủ ý của đời sống là quá rõ ràng : sống là sống hạnh phúc, cho cá nhân và tập thể, thì mọi hành động, xử sự đều vì mục đích đó, mà không vì một chủ trương nào khác, bởi vì các chủ trương là vì sự sống, mà không phải sự sống vì chủ trương.

" Hiệp Khách Hành " đã diễn đạt ý tưởng đó qua các " xen " ( scène ) đấu võ khá lý thú :

- Khi Cẩu Tạp Chủng đang ở tận cuối mui thuyền, Đinh Bất Tử liền ra chiêu Chung cổ tề minh nhằm để giục chàng xuất chiêu Xung Văn Tác Triển ứng phó : trước khi xuất chiêu nầy thì phải lùi lại vài bước. Biết vậy, Cẩu Tạp Chủng không theo bài bản nữa, mà biến chiêu qua Cẩm nã thủ pháp : lạng người ra sau lưng Đinh Bất Tứ ra chiêu Hổ trảo thủ và Ngọc nữ niêm châm khiến Đinh Bất Tứ bất ngờ bị ngã lăn quay xuống mạn thuyền, thua trận, xấu hổ.

- Khi Đinh Bất Tứ ra hư chiêu khi tả, khi hữu khiến Cẩu Tạp Chủng phân vân không biết vận kình lực thủ về phía nào, chàng liền bỏ bài bản, dồn nội lực vào cả hai tay, phòng sẵn cả tả lẫn hữu, khiến Đinh Bất Tứ kinh hải thu chiêu !

- Giữa cuộc sống đầy biến động nhiều hướng, thái độ sống tốt đẹp cho con người cũng thế : nắm lấy mục tiêu hạnh phúc, an lạc cho cá nhân và tập thể mà hành xử, mà không nhất thiết phải nắm lấy chủ trương !

Đây là tinh thần không chấp thủ và " tùy duyên mà bất biến " của nhà Phật.


XI. Hồi 10 : Kim Ô Đao pháp

A. Tóm tắt Hồi 10
- A Tú qua cảm nghiệm tự thân với rung động chân thật của tâm hồn đã khẳng định: Cẩu Tạp Chủng không phải là Thạch Trung Ngọc. Điều nầy lần đầu tiên được nghe từ con người đẹp đẽ, hiền hoà của A Tú, Cẩu Tạp Chủng cảm động đến rơi nước mắt. Chàng tự nhiên nắm hai bàn tay A Tú và rất chân thành thốt lên lời cảm tạ. Bất giác chàng buông tay ra, cảm thấy mình suồng sã, xấu hổ. Cử chỉ này khiến Sử bà bà yên lòng hẳn chàng là người khác, Thạch Trung Ngọc là người khác.

- Sử bà bà, để kịp đối đầu với Đinh Bất Tứ, bèn thu nhận Cẩu Tạp Chủng là đệ tử truyền nhân của mình và lập ra Kim Ôâ đạo pháp. Bà gọi tên chàng thiếu hiệp là Sử Ức Đao và dạy đủ 72 chiêu kiếm pháp Tuyết Sơn và 73 chiêu đao pháp Kim Ô để khắc chế. Chàng tập luyện đến mức độ sử dụng đao pháp khá thông thạo.

- Một hôm tình cờ Đinh Bất Tam và Đinh Đang bất chợt xuất hiện trong rừng Tử Yên, khi chàng và A Tú đang thân mật trò chuyện và lạy nhau để cảm tạ lòng tốt của nhau, Đinh Bất Tam liền chận đường; Đinh Đang thì phóng đao kết liễu mạng sống A Tú. Núng thế, Cẩu Tạp Chủng bồng A Tú thi triển khinh công thượng thừa (nhờ nội lực vô cùng thâm hậu ) băng rừng lẫn trốn về động.

- Đến nơi thì chàng lại thấy Bạch Vạn Kiếm đang tử chiến với Đinh Bất Tứ : bên kiếm, bên quyền. Đinh Bất Tứ đánh tay không không địch lại, bị thương nhẹ ở hông, máu chảy khá nhiều; vừa lúc Đinh Bất Tam đến trợ chiến, đánh chết ba tên kiếm sĩ Tuyết Sơn và gây thương tích Bạch Vạn Kiếm, đang dồn Bạch Vạn Kiếm đến điểm thúc thủ. Cẩu Tạp Chủng nhảy vào can thiệp, đứng về phe Bạch Vạn Kiếm, sử dụng Kim Ô đao pháp, bên cạnh kiếm pháp Tuyết Sơn, tấn công Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ. Hai ông kiêu mạng nầy kinh hoàng thấy cả hai bị vây chặt giữa ánh đao và kiếm; cả hai đều bị thương, liền nhảy vội ra khỏi vùng đao kiếm trốn chạy vào rừng thoát thân...

- Bạch Vạn Kiếm hỏi Cẩu Tạp Chủng về lai lịch Kim Ô đao pháp. Chàng thành thật thuật lại các lời giảng dạy của Sử bà bà khiến Bạch Vạn Kiếm tức mình vung kiếm chém chàng.

Cẩu Tạp Chủng bị ép phải chiến đấu, hơn một lần " tha chết " cho Bạch Vạn Kiếm : Kim Ô đao pháp quả là có sức mạnh khắc chế và vượt hẳn kiếm pháp Tuyết Sơn. Bạch Vạn Kiếm rất bẽ mặt, bèn dùng mẹo đánh lừa Cẩu Tạp Chủng và thắng chàng một chiêu... rất là hạ cấp ! ...

B. Ý Kiến

1. Tâm và Tướng :

- Các cao thủ võ lâm đều nhận diện Cẩu Tạp Chủng qua cái thân tướng của chàng và qua kinh nghiệm giác quan thường nghiệm của mình nên đã nhận lầm chàng là Thạch Phá Thiên (Thạch Trung Ngọc) và làm phát sinh ra biết bao nhiêu rối ren cho xã hội.

- Chỉ một mình A Tú đầy đủ nhân duyên phân biệt rõ Cẩu Tạp Chủng và Thạch Trung Ngọc qua cái tâm , cái tình chân thật của chàng, và qua rung động con tim của chính mình. Sử bà bà cũng quan sát chàng qua biểu hiện cái tâm, cái tình của chàng và xác nhận chàng không phải là Thạch Trung Ngọc.

Cái tướng trạng không nói lên được sự thật, con người thật, điều mà Kinh Kim Cang đã nói: "Các tướng đều là hư dối" ( " Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng " ). Giá trị thật của con người là ở cái tâm. Giáo dục con người là giáo dục cái tâm, chuyển đổi cái tâm.

2. Tinh thần vô hại - hữu nghị :

- Kim Ô đao pháp của Sử bà bà gồm toàn những chiêu đầy nộ khí, sát thủ, dễ gây tử thương và tổn thương cho đối phương, sẽ chuốc lấy oán thù, cừu hận đe dọa an ninh cho bản thân , gia đình và bang phái. Vì thế, với thái độ sống của Cẩu Tạp Chủng và A Tú, A Tú bèn giới thiệu cho Sử Ức Đao chiêu " Bàng cổ trắc kích ": khi thấy rõ mình đã chiến thắng đối phương rồi, thì liền chém đông, chém tây cho người chung quanh loè mắt không thấy gì, rồi thu đao về mà nói rằng : " Kiếm pháp các hạ thật là tinh diệu, tại hạ khâm phục vô cùng. Hôm nay chúng ta bất phân thắng bại, giải hoà để kết bạn được chăng ? Vậy là đối phương hiểu ngay mình có ý nhường nhịn, lại không tổn thương đến thể diện, nhiều phần là họ kết bạn với đại ca ngay ". (tập.2,tr.239)

Đây là chiêu thức hữu nghị, kết bạn gọi là chiêu " Dĩ hoà vi quýù", tương tự lấy tình thương xoá bỏ hận thù của Phật giáo để xây dựng an lạc cho đời sống.

3. Bài học về sự phối hợp Kim Ô đao pháp và Tuyết Sơn kiếm pháp :

- Mỗi chiêu của Kim Ô đao pháp đều là khắc tinh của từng chiêu Tuyết Sơn kiếm pháp, nhưng khi đao và kiếm ấy liên thủ thì tạo thành một sức mạnh kinh hồn, nhất là đao pháp được sử dụng bởi nội lực thâm hậu của Sử Ức đao, đến nỗi hai đại cao thủ tuyệt luân Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ chỉ chịu đựng được vài chiêu đầu rồi đều bị thương suýt vong mạng, kinh hoàng lăn mình ra khỏi vòng đao kiếm cắm đầu tẩu thoát. Kim Dung viết :

"... Bạch Vạn Kiếm liền sử chiêu " Ám hương sơ ảnh ", trường kiếm vừa rung lên, kiếm quang đã xuất hiện trùng trùng. Đây là một chiêu tinh vi nhất trong kiếm pháp Tuyết Sơn, có thể đả thương đối phương bất cứ lúc nào, không thể biết để đề phòng. Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) cầm con dao chặt củi phạt ngang rồi rung động luôn mấy cái. Đó là chiêu " Bào ngư chi tứ ", nội lực xô ra cả bốn mặt tám phương.

Bỗng nghe hai tiếng la ối ối, vai Đinh Bất Tứ bị trúng đao, cánh tay Đinh Bất Tam bị trúng kiếm. Hai lão đột nhiên quay mình nhảy ra ngoài vòng. Đinh Bất Tam xoay lại nắm tay Đinh Đang lôi đi, chạy lẹ vào khu rừng phía đông, còn Đinh Bất Tứ chạy trốn về quả núi ở hướng Tây " ( tập 2, tr.262 )

Nếu Cẩu Tạp Chủng là mẫu hình tâm lý được phát triển theo tinh thần Phật học, thì " xen " đấu kiếm trên đã gợi ý rằng :

- Thiền chỉ và các định mà hành giả đắc được ( tương tự sự thành tựu " La hán phục ma thần công " ) sẽ thiếu tác dụng giúp ích cho tự thân hành giả và tha nhân, nếu không biết sử dụng nó để hành thiền quán mà cắt đứt hẳn các phiền não ( tương tự vận nội lực ra đao pháp và kiếm pháp ) cho mình và cho người.

- Nếu văn hoá Phật giáo được kết hợp và bổ sung cho một hệ văn hoá nào đó( tương tự việc Cẩu Tạp Chủng liên thủ với Bạch Vạn Kiếm ) thì sẽ là một sự bổ sung tuyệt vời tạo ra một sức mạnh văn hoá đáng kể!


XII. Hồi 11 : Rượu thuốc

A. Tóm tắt Hồi 11
- Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) trở lui hang động thì Sử bà bà và A Tú đã dời chỗ ở đi nơi khác.

- Chàng bước vào một chiếc thuyền lớn giạt vào đảo. Thuyền đầy các thi thể của Phi Ngư bang do sự trừng phạt của hai sứ giả " Thưởng thiện Phạt ác "

- Hai chiếc thuyền lớn khác của Thiết Xoa Hội kéo chiếc thuyền của Phi Ngư bang xuống miền hạ lưu, cảng Hồng Liễu. Thạch Phá Thiên trốn ở lòng thuyền nghe được câu chuyện Thiết Xoa Hội làm sào huyệt dưới lòng đất để tránh mặt "sứ giả ". Khi tất cả đã vào đất liền của cảng, Thạch Phá Thiên đi giọc ven sông đến ẩn trong một khu rừng rậm. Chàng hạ sát một chú heo rừng đến tấn công chàng; lên lửa thui các đùi heo để trừ cơn đói.

- Tại đây, hai sứ giả xuất hiện, cùng chàng trò chuyện bên lửa, rượu và thịt heo rừng.

- Tình cờ, nhân duyên đưa đẩy chàng nốc sạch hai bình rượu kịch độc của hai sứ giả: lượng rượu mà hai sứ giả đã tinh luyện để luyện nội lực cho nửa năm .

" La hán phục ma thần công " đã hoá giải rượu độc thành rượu bổ tăng thêm nội lực cho Thạch Phá Thiên.

- Cả ba kết nghĩa sinh tử rồi cùng lên đường đến hành dinh của Thiết Xoa Hội.

B. Ý Kiến

1. Ý nghĩa rượu độc thành rượu bổ

- Thực tế đời sống cho thấy, nếu rượu bổ, hay thuốc bổ, mà dùng vô độ có thể dẫn đến cái chết.

- Chất kịch độc, thông thường thì cơ thể rất khó dung nạp nên dễ kết thúc mạng sống do tê liệt hệ tim, hay thần kinh.

- Nếu lượng độc vào với liều lượng mà cơ thể có thể dung nạp thì nó trở thành khả năng đề kháng chống độc, như các loại vắc -xim.

- Nếu cơ thể có khả năng đề kháng rất cao, thì khả năng dung nạp chất độc cao hơn: đây là trường hợp của hai sứ giả dùng rượu độc để gia tăng công lực như Kim Dung viết. Cẩu Tạp Chủng do có nội lực của" La hán phục ma thần công " mà dung nạp rượu độc nhiều lần lớn hơn hai sứ giả.

- Về mặt tâm lý cũng thế, khổ đau, bất hạnh ở đời khiến nhiều người không chịu được phải điên cuồng, hay tự vẩn. Nhưng cũng có nhiều người có khả năng làm chủ tâm thức và tình cảm cao có thể chịu đựng nhiều khổ đau : càng khổ đau, tâm thức càng thức tỉnh, tình người càng dâng cao, và dục vọng càng vơi đi : đây là ý nghĩa thực sự của sự kiện rượu độc chuyển hoá thành rượu thuốc ( bổ ) đối với người có định lực ( khả năng thiền định ) sâu như Cẩu Tạp Chủng.

2. Tính chất bất định của các hiện hữu

- Tính chất của các hiện hữu, ví như rượu, được xác định bởi một số điều kiện nào đó, trong môi trường nào đó; tính chất đó sẽ khác đi trong các điều kiện xác định khác, ở môi trường khác. Đây gọi là tính chất bất định, hay không thật sự có tự ngã, của các hiện hữu. Tương tự như câu nói " thù của kẻ thù là bạn ".

Phật giáo xác định các hiện hữu đều do điều kiện sinh nên không có tự ngã, gọi là vô ngã, vô thường.

Các học thuyết ( " isme " ) ở đời thường có khuynh hướng khẳng định, cho hiện hữu một tính chất bất biến nào đó. Đây là chủ trương không phù hợp với thực tế, thực tại. Hồi truyện về " Rượu thuốc " gợi cho người đọc tư tưởng nầy.

3. Nét khác biệt giữa hai thái độ hiền thiện, hay nét khác biệt giữa văn hoá " Thiếu Lâm tự " và đảo Hiệp Khách:

a/ Thiện chấp thủ ( dính mắc ) của Hiệp Khách đảo

Hai sứ giả " Thưởng thiện, Phạt ác " của đảo Hiệp Khách chuyên hành hiệp, làm việc thiện, nhưng làm với thái độ cố chấp, chấp thủ, dính mắc.

b/ Thiện rất thuần thiện, không dính mắc của Cẩu Tạp Chủng ( thuộc văn hoá của Thập Bát La hán, Thiếu Lâm tự )

Cẩu Tạp Chủng sống rất thuần thiện, tự nhiên, không bị dính mắc, không bận tâm đến khen, chê nên có điều kiện để phát triển nội lực cao, phát triển trí tuệ.

Đây là đặc tính rất cơ bản rọi sáng lý do vì sao đảo Hiệp Khách suốt 40 năm, không phá giải được bí pháp " Thái Huyền Kinh ", trong khi Cẩu Tạp Chủng chỉ cần vỏn vẹn 100 ngày, giải mã dễ dàng bí pháp. Hãy lắng nghe một mẫu đối thoại ngắn sau đây về sự khác biệt của hai thái độ tâm lý nói trên :

" Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) xua tay nói :' Hai vị ca ca có thêm một tay phụ lực há chẳng tốt hơn ư ? Chúng ta ít người không địch nổi số đông, nếu gặp nguy cấp thì cứ chạy trốn, đâu có nhất định phải chết ? '

Lý Tứ cau mày nói : ' Đánh thua bỏ chạy thì đâu phải là anh hùng hảo hán ? Hay nhất là ngươi đừng đi theo để làm mất mặt chúng ta ' ".

( tập 3, tr. 40)


XIII Hồi 12 : Hai tấm bài đồng

A. Tóm tắt Hồi 12
- Hai " sứ giả " và Cẩu Tạp Chủng đi vào tổng hành dinh của sào huyệt Thiết Xoa Hội. Không có sức mạnh nào ngăn cản bước chân đi của ba người.

- Tại hành dinh, tổng đà chủ Uông Đắc Thắng long trọng, vừa kinh hãi, tiếp đón hai tấm bài đồng, thiếp mời đi dự hội yến " Lạp bát ". Tại đây, hai sứ giả đúng thời điểm ngấm rượu độc ngất đi. Uông Đắc Thắng và các cao thủ Thiết Xoa xông vào giết cả ba. Cẩu Tạp Chủng, với bản năng tự vệ, múa tít song chưởng, độc khí của rượu độc tiết ra làm chết tức khắc gần 100 người Thiết Xoa ở đó. Chàng bèn vận khí điều hoà kinh mạch cho Trương Tam, Lý Tứ, cứu hai sứ giả. Cả ba lại tiếp tục lên đường. Hai sứ giả đi riêng theo sứ mệnh.

- Cẩu Tạp Chủng một mình đi lạc đến Thượng Thanh Quán của các đạo sĩ Lão Trang và ẩn mặt theo dõi Thạch Thanh và Mẫn Nhu ( vốn là môn sinh của Thượng Thanh Quán ) đang đàm đạo với Thiên Hư ( đạo chủ ) và các huynh đệ cao cấp, đòi nhận lãnh hai tấm bài đồng đi phó hội chịu chết thay cho Thiên Hư.

- Bị phát hiện, Cẩu Tạp Chủng xuất chưởng tự vệ khiến hai đạo trưởng bị ngất đi ( có thể vong mạng ). Các đạo trưởng nghi ngờ đây là âm mưu của Thạch Thanh - Mẫn Nhu. Cuộc xung đột đao kiếm xẩy ra giữa các đạo trưởng và Cẩu Tạp Chủng : các đạo trưởng gồm Thiên Hư, thua trận; nhiều người bị té ngất; Cẩu Tạp Chủng cứu tỉnh được tất cả; rồi chia tay các đạo trưởng; trả lại hai tấm bài đồng cho Thiên Hư; đoạn cùng Thạch Thanh - Mẫn Nhu tiếp tục hành trình...

B. Ý Kiến

1. Dòng sống đầy yếu tố bất ngờ :

- Sự kiện hai " sứ giả " tài ba, thông thái, ngót 40 năm bất bại trên giang hồ qụy ngã tại hành dinh Thiết Xoa Hội nói lên sự thật dòng sống đầy yếu tố bất ngờ mà thuật ngữ Phật học gọi là vô thường : đầy nguy hiểm và khổ đau. Đời sống là biến động, mà không tỉnh tại.

2. Cái nhìn thực và trí tuệ :

- Các đạo trưởng của Thạch Thanh Quán tu hành chú trọng phần chuyển đổi về thân, mà nhẹ về tâm lý, nên cái nhìn trở nên phàm tục : đã không nhận ra cái tâm chân thật của Thạch Thanh, Mẫn Nhu và Cẩu Tạp chủng. Nếu các đạo trưởng nặng về tu tập tâm lý, huấn luyện tâm lý, thiền định thì cái nhìn sẽ trở nên khoan dung hơn, sáng suốt hơn, vị tha hơn, và đã không rơi vào các ngộ nhận, sai lầm đáng tiếc.

Cho đến khi các sự việc trở nên sáng tỏ, tâm lý của các đạo trưởng vẫn cố chấp, hẹp hòi, cảm thấy tức bực, bẽ bàng, thay vì cảm thông sâu sắc hơn và đạo tình hơn đối với Thạch Thanh, Mẫn Nhu và Cẩu Tạp Chủng. Tu hành như vậy thì có lợi ích rất ít cho mình và người, vẫn còn cách xa với cái nhìn đầy chân thật và trí tuệ.

3. Chiêu thức của Thượng Thanh Quán và chiêu thức của Cẩu Tạp Chủng

- Các thế võ, kiếm, đao chẳng qua chỉ khác nhau ở thế vận hành tay, chân, và tốc độ của vận hành. Sức mạnh của võ, đao, kiếm nầy được gọi là " hữu chiêu ", luôn bị hạn cục.

- Cẩu Tạp Chủng ra chiêu về võ, đao, kiếm cũng thế, về mặt tướng trạng biểu hiện thì vẫn là hạn cục. Điểm khác biệt duy nhất đã khiến cho võ thuật, kiếm pháp, đao pháp ấy trở nên vô song là do nội lực ( hay gọi là sức mạnh của tâm lý, thiền định ) hùng hậu, do cái tâm, nhân hậu, vô dục, vị tha, vô chấp. Sức mạnh vô song đó thật sự có mặt trong thiền định Phật giáo, trong văn hoá Phật giáo. Đây hẳn là nội dung mà tác giả muốn đề cập khi giới thiệu giá trị vô song của "La hán phục ma thần công ".


XIV. Hồi 13 : Tình cốt nhục

A. Tóm tắt Hồi 13
- Sau lần giáp mặt các đạo sĩ Thương Thanh Quán, Cẩu Tạp Chủng được Thạch Thanh và Mẫn Nhu nhận làm con đẻ ( Thạch Trung Ngọc ) và sống chung với hai ông bà trong một thời gian : Ông bà trong lòng vẫn vờn lên vài ý nghĩ hoài nghi về sự lững quên quá khứ của Cẩu Tạp Chủng; phần Cẩu Tạp Chủng cũng phân vân về Mẫn Nhu và " má má " ở núi Hùng Nhĩ : ai là mẹ thật ? Nhưng họ xử sự theo tình cảm thiết tha, chân thành gọi là tình cốt nhục.

- Cẩu Tạp Chủng thuật cho Mẫn Nhu hiệp nữ nghe hết mọi chuyện xẩy đến với chàng ở núi Hùng Nhĩ, ở thị trấn Hầu Giám Tập, ở bang Trường Lạc, ở đảo Tử Yên với Sử bà bà và A Tú, ở nhà Đinh Bất Tam làm lễ thành hôn với Đinh Đang, việc liên thủ vơiù Bạch Vạn Kiếm đánh bại Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ, và việc kết nghĩa sinh tử với hai " sứ giả " ( Thưởng thiện, Phạt ác ) và ở Thiết Xoa Hội... Nếu bà Mẫn Nhu không bị ám ảnh rằng Thạch Trung Kiên đã chết, thì bà đã nhận ra Cẩu Tạp Chủng là Thạch Trung Kiên và tiếp tục khám phá ra thêm nhiều chuyện giang hồ liên hệ đến Hiệp Khách đảo và Trường Lạc bang...

- Hai ông bà giảng dạy cặn kẻ võ học cho Cẩu Tạp Chủng và nói về hành tung của Trương Tam, Lý Tứ ... chuyện nào cũng nửa đúng, nửa sai, nửa hư nửa thật... và quyết tâm đến Trường Lạc bang để làm rõ sự thật Thạch Phá Thiên được giả lập làm bang chúa để chịu chết thay cho Bối Hải Thạch trên Hiệp Khách đảo, hầu cứu gỡ mạng cho Cẩu Tạp Chủng ( Thạch Phá Thiên, con ông bà )

B. Ý Kiến

1. Kinh nghiệm tình cốt nhục :

- Khi bà Mẫn Nhu nghĩ Cẩu Tạp Chủng là Thạch Trung Ngọc, con đẻ của mình, thì chi xiết thương cảm, tận tình săn sóc, bảo bọc, dù chàng có phạm vào tội lỗi lớn lao nào; thương với tình thương vong ngã muốn thay thế con để nhận lấy hậu quả của việc làm sai quấy của con để con được sống hoan hỷ, hạnh phúc.

- Khi Cẩu Tạp Chủng nghĩ về " má má " trên đỉnh Hùng Nhĩ, dù bà lạnh lùng, khe khắt, chàng vẫn nhớ nhung, quyến luyến.

Tình cốt nhục, hay tình người biểu hiện đến mức độ tình cốt nhục, đã giúp con người sống tha thứ, thương yêu và hạnh phúc.

2. Sức mạnh của ý nghĩ ( tác ý )

- Khi Bạch Vạn Kiếm nghĩ rằng Cẩu Tạp Chủng là Thạch Trung Ngọc " quấây phá " thì liền trút xuống đầu chàng bao tức giận, dù Cẩu Tạp Chủng rất chi là hiền hoà, lịch sự và đứng đắn.

- Khi nghĩ Cẩu Tạp Chủng là Thạch Phá Thiên, kẻ đã hại tiết hạnh của vợ mình thì Triển hương chủ vô cùng căm hận, liền vung chưởng để giết ngay, dù chàng rất nhân ái, vị tha.

- Khi nghĩ Cẩu Tạp Chủng là Thạch Trung Ngọc, người tình của mình, thì Đinh Đang rất thiết thân, tận tình săn sóc khi bệnh ...

Nếu nghĩ tha nhân đều là thân nhân, như tình đồng bào, cùng cha mẹ huyết thống, thì mọi người sẽ xử sự thân ái với nhau, che chở đùm bọc nhau chí tình. Con người làm chủ ý nghĩ ấy, và có thể khởi nghĩ đối với cứ ai, lúc nào và ở đâu.

Đây là kinh nghiệm tâm lý mà giáo lý nhà Phật dạy con người nghĩ đến người khácnhư bà mẹ nghĩ đến người con duy nhất của mình ( như sự biểu hiện tình mẹ của bà Mẫn Nhu ) để nuôi dưỡng tâm từ bi (...).

Câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ mở đầu lịch sử Việt Nam với 100 người con chung bào thai mẹ nên tình người Việt Nam gọi là tình đồng bào, cũng cùng một ý nghĩa giáo dục tâm lý ấy.

Đây cũng là một góc tâm tình của tác giả Kim Dung ?


XV. Hồi 14 : Tứ đại môn phái ở Quan Đông

A. Tóm tắt Hồi 14
- Tại khách sạn thị trấn Long Câu, Đinh Đang đến bí mật gặp Cẩu Tạp Chủng, lừa cho Thạch Thanh - Mẫn Nhu đi tìm chàng, rồi hai người thong dong đi về hướng khác để có những ngày sống riêng tư. Ghé vào một thị trấn nhỏ, ăn uống tại một tiệm cơm. Tại đây có nhiều quần hào, trong đó có môn chủ của bốn đại môn phái ở Quan Đông. Đinh Bất Tứ xuất hiện với tính khí kiêu mạn gây sự với quần hùng rồi động thủ. Ở ngoài quán cơm, bốn môn chủ liên thủ tấn công Đinh Bất Tứ, mà vẫn ở hạ phong, nhiều lần cả bốn suýt vong mạng, nếu không có sự nhắc chừng của Cẩu Tạp Chủng về các chiêu hiểm của Đinh Bất Tứ.

- Lúc cực kỳ nguy hiểm, Cẩu Tạp Chủng bước vào vòng chiến song đấu với lão Tứ. Chỉ qua mười chiêu cẩm nã thủ, lão Tứ đã không chịu nỗi kình lực từ song chưởng của chàng; cây nhuyễn tiên bị chàng bắt chặt rồi bung ra khiến lão Tứ bị văng ra xa làm đổ sập cả một góc tường rồi bỏ chạy.

Quần hùng rất cảm kích và ngưỡng mộ tài ba và hào hiệp của Cẩu Tạp Chủng, đãi tiệc chàng và Đinh Đang, và mời hai người cùng lưu lại phòng trọ để cảm tạ ...

- Nhóm Trường Lạc Bang lại xuất hiện ở thị trấn nầy và hẹn tương kiến với nhóm môn chủ Quan Đông ở cánh rừng kế cận.

B. Ý Kiến

1. Từ Hồi truyện 14, Cẩu Tạp Chủng đã thừa khả năng đánh bại Đinh Bất Tứ dễ dàng. Chàng đã biết nhiều phép xã giao trên chốn giang hồ. Chàng đã nhận được nhiều ngưỡng mộ của các cao thủ chân chính qua tài năng, lòng nhân ái, nghĩa hiệp và tánh khiêm tốn, ôn hoà.

2. Bình thường tâm:

- Dù được nhiều sự chiêm ngưỡng tài năng, nhưng tự Cẩu Tạp Chủng thì thấy bình thường như là tài năng ấy không phải của chàng. Tâm chàng vì vậy vẫn khiêm tốn, nhân hoà như mọi khi. Đây là ưu điểm khiến chàng không ngừng phát triển nhanh tâm thức hướng về trí tuệ về sự thật của vạn hữu, như là sự phát triển theo giáo lý nhà Phật : " Bình thường tâm là đạo ".

3. Lại bất ngờ của cuộc sống :

- Sự thay đổi, phát triển nhanh nội lực, võ công và hiểu biết của Cẩu Tạp Chủng khiến nhiều người kinh ngạc :

- Cách xa chưa quá một tháng, từ chỗ vụng về chưởng pháp đến chỗ " hạ đo ván " dễ dàng một cao thủ tuyệt luân như lão Tứ : lão đã thua trận bẽ bàng.

- Đinh Đang từ tháng trước là người truyền dạy cẩm nã thủ cho Cẩu Tạp Chủng với tâm lý ngây ngô của chàng, nay thì nàng quá hãnh diện về chàng về võ công lẫn giao tiếp.

- Tứ đại cao thủ Quan Đông, danh rền một cõi, mới ngày đầu đến Trung Nguyên thì liền suýt vong mạng trước một ông già Đinh Bất Tứ... rồi tận mắt thấy tài nghệ phi thường của chàng thiếu hiệp, lòng nghĩa hiệp và sự khiêm cung của chàng...

Bất ngờ luôn xẩy ra quanh cuộc sống ! Điều mà Phật học nói là vô thường, vôthường...


XVI. Hồi 15 : Chân tướng

A. Tóm tắt Hồi 15
- Tại khu rừng thông rậm rạp ngoài thị trấn Long Câu, bang chủ của tứ đại môn phái Quan Đông được Bối Hải Thạch, 9 vị Hương chủ, Hương phó và gần 100 người bang Trường Lạc tiếp đón trong tinh thần hai bên thăm dò, tìm hiểu nhau. Cao Tam Nương, tánh nóng nảy, phóng phi đao làm Hương chủ Trần Xung Chi bị thương ở chân; cuộc xung đột binh khí sắp xẩy ra thì Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) xuất hiện trước sự tôn kính cả hai bên, giảng hoà vui vẻ, tất cả kéo về tổng đà bang Trường Lạc.

- Tại bang Trường Lạc, nhiều cao thủ Tuyết Sơn đang bị đánh thuốc mê và bắt giữ; Bạch Vạn Kiếm đi đến đối chất; rồi Thạch Thanh, Mẫn Nhu và nhiều cao thủ trọng tuổi tiếng tăm trong võ lâm đồng kéo đến để bạch hoá lai lịch của Thạch bang chúa.

- Hai sứ giả đảo Hiệp khách cũng đến đem theo kẻ ẩn trốn Thạch Trung Ngọc. Các âm mưu gian dối của Bối Hải Thạch, bang Trường Lạc, các sai trái của Thạch Trung Ngọc đã tạo ra sự ngộ nhận về Cẩu Tạp Chủng trên giang hồ lần lượt được phơi bày. Con người chân thật, hiệp nghĩa và trong sáng, tài năng của Cẩu Tạp Chủng được tỏa sáng hơn bao giờ. Các sai quấy, phóng đãng và vị kỷ của Thạch Trung Ngọc lộ rõ. Các ngộ nhận của Bạch Vạn Kiếm, các cao thủ Tuyết Sơn, Thạch Thanh - Mẫn Nhu và quần hùng được rọi sáng...

- Thạch Trung Ngọc khước từ chức vị bang chủ bang Trường Lạc; Cẩu Tạp Chủng khởi lên từ tâm tự nguyện nhận chức bang chủ để gánh vác " khó khăn " đi dự hội yến, và được toàn bang tín nhiệm, trân trọng. Cẩu Tạp Chủng vui vẻ nhận hai tấm thiệp mời bài đồng từ tay hai " sứ giả "

- Bang chủ của tứ đại môn phái Quan Đông cũng chính thức nhận hai tấm bài đồng;

- Hai vị sứ giả từ giả bang Trường Lạc đi đến Tuyết Sơn, thành Lăng Tiêu để chuyển thiệp thỉnh. Tất cả đồng rời khỏi bang Trường Lạc...

B. Ý Kiến

1. Kinh nghiệm về ánh sáng của sự thật và lịch sử

- Tác giả Kim Dung đã khéo dẫn dắt câu chuyện, chuyển vận các nghi vấn, các việc làm rất kín đáo mà đầy hổ thẹn đến tổng đà Trường Lạc với các nhân sự liên hệ, đủ mặt như là chuẩn bị đầy đủ cho một phiên tòa, mà cơ quan điều tra là hai vị sứ giả " Thưởng thiện Phạt ác " rất công chính, đầy đủ tài năng đáng tin cậy. Tại đây, tất cả được đưa ra ánh sáng : xấu hổ, ủ rũ như nhân vật Bối Hải Thạch và bang Trường Lạc; trơ trẻn như Thạch Trung Ngọc; hổ thẹn, mắc cỡ như Bạch Vạn Kiếm; ngỡ ngàng như Thạch Thanh, Mẫn Nhu, ân hận như Triển Phi hương chủ và nhiều cao thủ khác v.v....

Dưới ánh sáng của sự thật và lịch sử, không có gì có thể được dấu kín. Đây là bài học cho các trí thức, hiệp khách, các nhân vật lãnh đạo của các tổ chức xã hội.

2. Mẫu tâm lý hành hiệp lý tưởng :

- Bạch Vạn Kiếm là một tài năng, là một người con có hiếu nên hẳn là một kiếm khách tốt, nhưng tầm nhìn bị hạn chế, tánh tình cố chấp, thiếu bao dung nên hành xử thường rơi vào các sai lầm đáng tiếc !

- Các bang chủ ở Quan Đông thì ngay chính, nhưng thiếu trí tuệ, chưa đủ điều kiện để hành hiệp tốt.

- Các đạo trưởng ở Thượng Thanh Quán chuộng các giá trị hình thức nên thiếu tâm đức và thiếu trí tuệ để phát triển Thượng Thanh Quán và giúp đời !

- Bạch Tự Tại và Sử bà bà thì cố chấp, tự kiêu, háo danh, nên dễ trở thành tác nhân của các rối loạn gia đình và xã hội !

- Thạch Thanh, Mẫn Nhu và hai sứ giả " Thưởng thiện Phạt ác " là các hiệp khách chân chính, nhưng còn đối đãi thị phi nên hành động hiệp nghĩa còn bị hạn chế, chưa thực sự lý tưởng.

* Có thể mẫu tâm lý thông tuệ, vô dục ( hay thiểu dục ), vô chấp và đầy nhân ái của Cẩu Tạp Chủng là thực sự lý tưởng cho việc hành hiệp giúp đời :

Cái nhìn vô sự vô hại của chàng như là vui vẻ chấp nhận, kính trọng các hành vi của người khác, miễn là các hành vi ấy không gây tổn hại đến ai. Cái nhìn nầy giúp tha nhân có " tự do tâm lý " để sống thoải mái, dễ chịu hơn. Cái nhìn đánh giá " xì xào " sẽ gây trở ngại " tự do tâm lý " của tha nhân, gây tổn hại đến quyền sống của tha nhân, và tạo ra một thái độ sống lệch lạc, chuộng giá trị hình thức rất ảo cho người đánh giá và cho xã hội. Con người vốn làm chủ cái nhìn và làm chủ văn hoá, tại sao không xây dựng cái nhìn ấy trong văn hoá ?

Thật đáng suy ngẩm nếu bạn đọc lại một đoạn mà tác giả đã tinh ý viết ở Hồi 14 (tr.167 ) rằng :

" Chủ quán cùng bọn tiểu nhị thấy hôm qua Thạch Phá Thiên theo vợ chồng Thạch Thanh vào ngủ trọ, mà bây giờ lại từ phòng một cô gái xinh đẹp đi ra thì ngấm ngầm kinh ngạc. Họ thi nhau bàn tán về chuyện này đến mười mấy ngày. Những câu chuyện của họ càng lúc càng thêm thắt những chi tiết kỳ dị, phần lớn đều là đoán mò ".

Cái nhìn vô sự , vô hại ấy của Cẩu Tạp Chủng là cái nhìn kính trọng, chấp nhận tha nhân và chấp nhận cuộc sống một cách tích cực. Tâm lý học nhà Phật xếp tâm lý vô hại thuộc nhóm thiện tâm cần được nuôi dưỡng.

Thật đáng kinh ngạc nếu xem thái độ sống vô sự, vô hại kia là" ngố "," khờ khệch ", và xem thái độ vị kỷ, dối gạt, " ma lanh " là lịch đời, khôn ngoan !


XVII. Hồi 16 : Thành Lăng Tiêu

A. Tóm tắt Hồi 16
- Đoàn người Bạch Vạn Kiếm, các cao thủ Tuyết Sơn, Thạch Thanh, Mẫn Nhu và Thạch Trung Ngọc trở về thành Lăng Tiêu.

- Đinh Đang thuyết phục thành công Thạch Phá Thiên " vác cây thánh giá " thay cho Thạch Trung Ngọc.

- Tại thành Lăng Tiêu, sau khi Sử bà bà ra đi biệt tăm, A Tú mất tích, đoàn cao thủ do Bạch Vạn Kiếm dẫn đầu đi lùng tìm Thạch Trung Ngọc, Bạch Tự Tại trở nên nóng nảy bất thường và trút các cơn thịnh nộ xuống hàng đệ tử : đã vô lý giết chết nhiều đệ tử khiến bang phái trở nên vô cùng bất an. Các sư đệ Bạch Tự Tại cùng hàng đệ tử lập mưu tống ngục Bạch Tự Tại và bàn chuyện phế ông ta, cử người mới lên làm chưởng môn.

- Đoàn người mới trở về cũng bị đánh thuốc mê và giam vào ngục thất. Thạch Phá Thiên nghĩ ra cách thoát ngục và đi cứu giải, vừa lúc Sử bà bà và A Tú đến, đang bị vây quanh các làn kiếm rất nguy kịch. Thạch Phá Thiên nhảy vào cứu nguy cho Sử bà bà và A Tú, tất cả ba cùng tìm cách cứu vãn tình thế nội biến trong bang.

B. Ý Kiến

1. Hai nhóm người

Các nhân vật trong truyện mỗi người một vẻ, có tâm lý biểu hiện khác nhau, tựu trung có thể xếp thành hai loại :

Vị kỷ : Nhóm vị kỷ, điển hình như Thạch Trung Ngọc, Đinh Đang, Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ, Bạch Tự Tại và rất nhiều cao thủ khác của Tuyết Sơn. Trung tâm hành dinh của vị kỷ là tự ngã, chấp thủ nặng cái " ta " và cái " của ta ", chỉ sống nhằm thỏa mãn dục vọng, hiếu danh, hiếu lợi.

Vị tha : Điển hình có hai sứ giả, Thạch Thanh - Mẫn Nhu, Cẩu Tạp Chủng, A Tú ...

Trung tâm điểm của tâm lý là hoạt động hành hiệp vì lợi ích của tha nhân, vì công lý mà trừ gian diệt hại, vì tình người, yêu con người. Chính sự có mặt của nhóm nầy trong tiểu thuyết kiếm hiệp đã tạo ra một sức hấp dẫn lớn, một sự đam mê truyện.

2. Hai ảnh hưởng :

- Nhóm thần tượng cái " ta " và cái " của ta " thì mãi là nguyên nhân, tác nhân của các xung đột, bạo hành, gây rối ren xã hội dẫn đến hậu quả không lường.

- Nhóm vị tha có khuynh hướng không nhìn thấy gì là " ta ", " của ta ", nhưng lại thường hành động tích cực giúp đời, giúp người khốn khó, bị bức hiếp, đem lại an lành, ổn định và tình người ấm áp cho xã hội.

Giáo lý nhà Phật có thể được giới thiệu là giáo lý của " không ta ", " không của ta " ấy, là giáo lý của thái độ sống thật, tích cực, mà không phải của triết lý, huyền đàm, rất đáng được tham cứu, trân trọng.


XVIII. Hồi 17 : Tự đại thành cuồng

A. Tóm tắt Hồi 17
- Các chi thuộc bang Tuyết Sơn đều tụ tập ở sảnh đường và đang múa kiếm tàn sát lẫn nhau thì Trương Tam, Lý Tứ xuất hiện đòi gặp mặt Bạch Tự Tại để trao thiệp mời dự hội yến Lạp bát.

- Các chi trưởng Thành, Tề, Liêu, Lương đang đấu kiếm kịch liệt để giành ngôi bang chủ, nay lại đấu kiếm tranh thua để nhường ngôi bang chủ. Thật mỉa mai!

- Tiếp theo, Sử bà bà, A Tú và Sử Ức Đao ( Cẩu Tạp Chủng ) tiến vào sảnh đường trước sự kinh hãi của các chi trưởng. Bà lên tiếng : " Các ngươi giam hãm chưởng môn cùng các đệ tử chi trưởng ở đâu, mau thả họ ra ! ". Đoạn bảo Sử Ức Đao ra đao đấu với các chi trưởng. Các ông đều nhường kiếm để nhường ngôi bang chủ...

- Bạch Vạn Kiếm ra khỏi nhà lao liền xuất kiếm đánh Liêu chi trưởng : hai bên giao đấu đến vài trăm chiêu thì Bạch Vạn Kiếm xuất tuyệt chiêu chặt lìa một chân của Liêu sư thúc.

- Sử bà bà ra lệnh cho Sử Ức Đao sử dụng Kim Ô đao pháp đánh bại Bạch Vạn Kiếm để minh bạch xác định ngôi bang chủ. Sử Ức Đao không dám đánh bại Bạch Vạn Kiếm, chỉ thủ cầm chừng, rồi sử chiêu " Bàng Cổ Trắc Kíc " để thủ hoà. Bạch Vạn Kiếm trước đám đông đã thành thật nhìn nhận thua cuộc.

Sử bà bà bèn bảo Sử Ức Đao trao chức chưởng môn và hai thẻ bài đồng để bà đi dự hội yến "một đi không trở lại"

- Sau khi nghe Phong Vạn Lý thuật lại các biến cố thay đổi tâm lý của Bạch Tự Tại, Sử bà bà cùng nhiều người thân vào ngục lao thăm và tâm sự cùng Bạch Tự Tại...

Bạch Tự Tại thử đấu nội lực với Sử Ức Đao và đã kinh hoàng, vừa thất vọng, thấy nội lực của thiếu hiệp hơn xa mình...

Ông nói một cách thê lương : " Bạch Tự Tại mỗ cuồng vọng tự cao, tội nghiệt nặng nề. Bây giờ ta phải ở đây quay mặt vào tường để sám hối lỗi lầm... "

B. Ý Kiến

1. Nguy hiểm của " cái tôi "

- Vì quá tự hãnh về tài kiếm pháp của mình, và kiêu ngạo vì nội lực vượt trội của mình nhờ vào một dược liệu đặc biệt, ông trở nên xem nhẹ cả vợ con, các huynh đệ, môn đồ, đánh phạt và tàn sát vô lý... đã dẫn đến cảnh nội biến tang tóc. Tất cả chỉ vì một cái " Tôi " muôn thuở của cuộc đời, rất chi nguy hiểm !

2." Tôi" vốn là tập thể... :

Cái " tôi " của Bạch Tự Tại không phải chỉ là thân tướng của ông cộng với võ công, nội lực, tham vọng, ham muốn... mà là toàn bộ bang phái Tuyết Sơn, thành Lăng Tiêu, và rộng xa hơn nữa. Bạch Tự Tại trút tức giận, đánh phá chung quanh chính là đang trút giận, đánh phá chính mình : không thể có một cái " tôi " nào độc lập cả.

Đây là tinh thần, nội dung giáo lý Duyên khởi, Vô ngã của Phật giáo.

3. Nhân duyên cứu gỡ :

- Các nhân tố dưới đây là các nhân tố cứu nguy cho thành Lăng Tiêu :

- Hai "sứ giả" Trương Tam, Lý Tứ ;

- Sử Ức Đao ( Cẩu Tạp Chủng ) ;

- Tâm lý hồi tỉnh, ân hận về việc làm sai quấy ;

- Tâm lý thức tỉnh, nhàm chán các thị phi, tang tóc ;

- Tình người ấm áp...

Đấy là các nhân tố của một hệ văn hoá an lành !




XIX. Hồi 18 : Điều phải cầu xin

A. Tóm tắt Hồi 18
- Tạ Yên Khách sau khi luyện rất thành thạo chiêu " Bích Châm Thanh Chưởng " liền tìm đến Trường Lạc Bang để rửa nhục, cái nhục ngày trước Bối Hải Thạch đã tự tiện đến Ma Thiên Lãnh bắt Cẩu Tạp Chủng đi. Trong thoáng nhìn, ông đã hạ sát liền bốn Hương Chủ; tiếp liền đánh Bối Hải Thạch trọng thương, nằm bất động dưới nền, máu chảy loang lố.

- Thạch Trung Ngọc bắt được sơ hở của Tạ Yên Khách là đang nợ một yêu cầu của Thạch Phá Thiên, nên giả vờ mình là Thạch Phá Thiên, và yêu cầu Tạ Yên Khách tru lục toàn bang phái Tuyết Sơn. Đây là lý do Tạ Yên Khách, Thạch Trung Ngọc và Đinh Đang có mặt ở Lăng Tiêu bấy giờ.

- Bạch Vạn Kiếm, Thành Tự Học và Tề Tự Miễn đang liên thủ tấn công Tạ Yên Khách. Cẩu Tạp Chủng nhảy vào vòng chiến và giàn hoà, thân thiết kính chào Tạ Yên Khách. Ông ta kinh ngạc thấy có mặt đến hai Cẩu Tạp Chủng, bèn hỏi " đứa nào là Cẩu Tạp Chủng thật ? "

Cẩu Tạp Chủng , trước quần hùng, thỉnh cầu Tạ Yên Khách nuôi dạy Thạch Trung Ngọc nên người tốt. Ông ta vô cùng bực bội, nhưng không thể chối từ.

- Bạch Tự Tại đón nhận lại tình cảm chung thủy thiết tha của Sử bà bà, bèn điểm huyệt bà, lấy hai tấm bài đồng và ra đi, đi về hướng lên thuyền đi Hiệp Khách đảo.

Sau đó, Cẩu Tạp Chủng, Bạch Vạn Kiếm, Sử bà bà, A Tú, Thạch Thanh - Mẫn Nhu cùng lên đường theo chân Bạch Tự Tại...

B. Ý Kiến

1. Danh tiếng mộng mị

- Tạ Yên Khách là một quái khách giang hồ, võ công cái thế mà chỉ mắc phải một chứng bệnh trầm kha : đó là ưng nổi tiếng " anh hùng " trên giang hồ, mọi người nghe đến tên mình là phải nể vì, kính sợ. Từ đó mắc phải biết bao việc ác :

- Chỉ một chuyện Bối Hải Thạch và quần hào Trường Lạc Bang lầm tưởng Thạch Phá Thiên ở Mã Thiên Nhai, đến đón về mà không được Tạ Yên Khách ưng thuận, thì cho đó là một điều nhục nhã cần được rửa sạch : đã thân hành đến Trường Lạc Bang giết các Hương Chủ và đánh gục Bối Hải Thạch.

- Ngông cuồng ban ra Huyền Thiết Lệnh để rồi giữ lời hứa ấy xem là quan trọng như sinh mạng, lại xem mạng sống của nhiều người khác như cỏ rác, giết chết vô cớ mà không ái ngại.

Những ý tưởng về giá trị của Tạ Yên Khách như thế là rất bệnh hoạn, rất mộng mị, điên đảo! Nhưng, những ý tưởng đó vẫn đeo đẳng con người từ thế kỷ nầy đến thế kỷ khác, giục con người từ bỏ nghĩa sống chân thật mà chạy theo các bóng hình hư ảo, mở ra các bi kịch rất bi thương !

Đó là những gì thuộc điên đảo kiến, điên đảo tâm ( như đã đề cập ở phần trước ) mà giáo lý nhà Phật đã thiết tha chỉ rõ..

2. Cái bất nhân vô hạn của tâm vị kỷ :

Thạch Trung Ngọc sống chỉ biết hưởng thụ khoái lạc cho chính tự thân, không cần biết đến các tổn hại do thói vị kỷ của anh ta gây nên. Trung Ngọc với vẻ khoái chí thỉnh cầu Tạ Yên Khách rằng :

" Tại hạ cả gan xin Tạ tiên sinh đến thành Lăng Tiêu tru diệt sạch sẽ phái Tuyết Sơn từ trên xuống dưới, không để sống sót một người nào ". ( tập 4, tr. 147 )

Thật đáng sợ thay dục vọng và vị kỷ !

3. Tâm lý vị tha :

Cẩu Tạp Chủng thường nghiêm túc làm theo lời " má má " ở núi Hùng Nhĩ rằng : " Trọn đời không mở lời xin ai một điều gì ". Vậy mà khi thấy bà Mẫn Nhu ứa nước mắt lo sợ Tạ Yên Khách xuất chưởng đánh chết Thạch Trung Ngọc, chàng liền lấy thân mình che chắn cho Trung Ngọc và khẩn xin Tạ Yên Khách tha tội cho Trung Ngọc và nuôi dạy chàng cho đến lúc nên người tốt. Không có nguyên tắc, lời hứa nào giá trị bằng lòng nhân ái và mạng sống của con người !


XX. Hồi 19 : Cháo Lạp Bát

A. Tóm tắt Hồi 19
- Ngày mồng 8 tháng chạp năm nay là ngày hội yến Lạp Bát trên Hiệp Khách đảo. Theo truyền thống của Phật giáo Trung Quốc, đó là ngày kỷ niệm Phật thành đạo.

Trên bờ biển, bịn rịn từ giã những người thân tình nhất, Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) lên thuyền con ra đảo. Một đảo vắng giữa biển lớn, phong cảnh đẹp, nơi đến là một vùng hang động thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ có bàn tay con người tu sửa.

- Quần hùng của hơn 30 năm qua, trừ một số chết vì hết tuổi thọ, và quần hùng năm nay, tất cả đều có mặt ở phòng nghinh tân. Long, Mộc nhị vị đảo chúa cùng với hơn 50 chúng đệ tử áo vàng, áo xanh ( Trương Tam ở hàng 12 của áo vàng , Lý Tứ ở hàng 14 áo xanh ) ra mắt quan khách rất trang trọng. Long đảo chúa là vị phương phi đầy tiên phong đạo cốt mở lời chào đón và mời tất cả nhắp rượu và dùng cháo (cháo nấu bằng loại rau cỏ rất quý hiếm )

- Các thắc mắc, nghi ngờ của quần hào về Hiệp Khách đảo lần lượt được Long đảo chúa rất ôn tồn giải toả : Tất cả được mời xem các sổ sách ghi chép công phu về các việc làm thưởng thiện, phạt ác phân minh trên chốn giang hồ 40 năm qua. Các bang phái và các cá nhân bị hai sứ giả tiêu diệt đều là các bang phái, cá nhân thuộc ma đạo, tạo ra quá nhiều tội ác không thể dung tha : sổ sách ghi rõ các lý do trừng phạt : Bấy giờ quần hào mới bớt nỗi lo.

B. Ý Kiến

1. Giáp mặt sự thật

- Các dư luận về hai sứ giả " Thưởng thiện, Phạt ác ", và về các việc làm, chủ trương của Hiệp Khách đảo đều là " hý luận "," huyền đàm ", " suy nghĩ một chiều " thiếu căn cứ. Tất cả chỉ là tin đồn làm rối tung toàn cõi giang hồ. Sự thật trên đảo cho thấy hoàn toàn khác. Đây là ảnh tượng của diệu nghĩa Kim Cang Bát Nhã : ở ngoài vòng ngôn ngữ, huyền đàm, ở ngoài các ngã tưởng.

Một lời dạy của đức Phật cho các người Kàlamà rất phổ biến trong giới Phật tử Á Đông là : Đừng vội tin những gì thuộc tin đồn ! Đừng vội tin những gì thuộc huyền đàm! Đừng vội tin những gì từ cửa miệng nhà truyền giáo... Nhưng hãy tin những gì tự mình thấy là thiện, lành cho mình và người trong hiện tại và tương lai, hãy xem đó là sự thật mà sống !... cũng cùng một gợi ý rằng hãy tự mình sống, thể nghiệm rồi sẽ tin là thật .

2. Các điều kiện tâm lý có thể khám phá sự thật :

- Các đạo sĩ, như Ngu Trà đạo trưởng, Thiên Hư đạo trưởng là các bậc thanh tu nên hi vọng có điều kiện để tiếp cận chân lý.

- Diệu Đế Thiền sư của Thiếu Lâm tự chuyên hành Giới, Định, Tuệ của Phật giáo, rất có hi vọng để giác ngộ chân lý.

- Mai Nữ hiệp có tâm sáng tạo, hi vọng có thể bắt gặp vài ánh sáng chân lýù.

- Các nhà bác học : hi vọng có điều kiện để mở tung bí pháp.

- Các bang chủ hầu hết đều có định lực cao, và kinh nghiệm khổ đau trần thế nhiều, hi vọng có bừng dậy sự giác tỉnh về sự thật.

- Tâm lý thuần thiện, và thông tuệ như Thạch Phá Thiên hi vọng có nhiều nhân duyên tương ưng với chân lý.

3. Lý do qua 40 năm mà bí kíp vẫn còn khép kín

- Các cao nhân đều bị kẹt vào phân tích luận giải, trong khi chân lý thì ở ngoài thế giới ý nghĩa của các ngã niệm, ngã tưởng.

- Các cao nhân đều đắm trước, dính mắc vào các cảm thọ khinh an, hỷ, lạc nên còn bị trói buộc bởi Thọ uẩn ( của Ngũ uẩn ) như Tôn Hành Giả bị kẹt ở Ngũ Hành sơn : Thọ uẩn là pháp bị làm ra gọi là hữu vi, trong khi sự thật thì không bị làm ra, gọi là vô vi.

- Các cao nhân đều bị dính mắc vào cái thấy biết của mình nên không thể đi xa vào sự phát huy trí tuệ.

Còn bị dính mắc là còn hữu hạn, trong khi trí tuệ giải thoát và giải thoát thì vô hạn.

Điểm dính mắc của các đạo nhân, kiếm khách trên đảo được Kim Dung giới thiệu tương tự sự dính mắc của 62 học thuyết phi Phật giáo ở xứ Ấn trước khi Đức Phật giác ngộ dưới cội bồ đề, đã được trình bày ở Kinh Phạm Võng, Trường Bộ I, Nikàya; và Kinh Phạm Động, Trường A hàm I, tạng A-Hàm.

Theo kinh Phật, kẹt vào ba điểm nêu trên thì hành giả không thể vào đại định của Diệt thọ tưởng định ( định đã dập tắt các cảm thọ và các ngã tưởng ) để tỏa sáng trí tuệ thể nhập chân lý.


XXI. Hồi 20 : Hiệp Khách Hành

A. Tóm tắt Hồi 20
- Khi mọi cao thủ đều hoan hỷ với các lời dẫn giải của Long đảo chúa thì đồng thanh muốn tận mắt xem bí kíp " Hiệp Khách Hành " , một bài thơ cổ của Lý Thái Bạch, một đại thi hào của Trung Quốc ngày xưa.

- Các môn đồ của đảo trải rộng tấm bản đồ của Động bí pháp gồøm 24 gian thạch thất có chữ và đồ hình trên vách đá. Tất cả được vào, ra tự do, hoặc ở lại luôn trong động tại từng gian thạch thất : đã chuẩn bị đầy đủ thức ăn , thức uống và các nhu cầu thiết yếu khác.

* Gian thạch thất thứ nhất : Câu đầu bài thơ là :

" Triệu khách mạn hồ anh "
( Khách nước Triệu phất phơ giải mũ )

với đồ hình một chàng văn nhân, phong nhã, thanh tú.

* Gian thạch thất thứ hai :

Câu thơ thứ hai là :

" Ngô câu sương tuyết minh "
( Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương )

- Các chữ viết trên vách động hất lên, tạc qua, đá xuống như là các đường kiếm : có 24 đường kiếm : nhìn kỹ 24 đường kiếm nầy thì Cẩu Tạp Chủng phát hiện có một nguồn nội lực vận hành từ huyệt Nghinh Hương đến huyệt Thương Dương ; phương vị cùng hình trạng các thanh kiếm hoàn toàn tương hợp với vị trí và đường lối vận chuyển kinh mạch trong nội thể.

- Cẩu Tạp Chủng trở lui nhìn ngắm đồ hình ở gian thạch thất thứ nhất : khi nhìn cái tay áo phất thì nhiệt khí đi theo Túc Thiếu Dương Đảm Kinh, hướng vào hai huyệt Nhật Nguyệt và Kim Môn; các nét trong đồ hình liên quan chặt chẽ với nhau như các đường kinh mạch trong cơ thể.

Có 9 lần 9 là 81 nét bút thuận, nghịch, Cẩu Tạp Chủng luyện theo từng nét cho đến khi thuộc lòng.

* Gian thạch thất thứ ba :
" Ngân Yên chiếu bạch mã "
( Ngân yên bạch mã huy hoàng )

Đồ hình là một con tuấn mã đang nghểnh cổ phóng nước đại, dưới vó có nhiều mây mù, như đang bay lên trời. Tập trung nhìn đồ hình thì Cẩu Tạp Chủng thấy khí nóng trong người ngưng trệ, không chuyển vận; rồi nội lực bỗng cuồn cuộn nổi lên giục giã co chân chạy, chạy tiếp nhiều vòng. Chàng chạy chín vòng, vừa để tâm trên đồ hình vách đá cho đến khi đồ hình khắc sâu vào tâm trí thì chàng ngừng chạy và đến gian thạch thất kế tiếp.

* Gian thạch thất thứ tư :
" Tạp đạp như lưu tinh "
( Vó câu vun vút như ngàn sao bay )

Cẩu Tạp Chủng theo đồ hình mà luyện tập.

Từ đây, Cẩu Tạp Chủng đi qua đủ 24 gian thạch thất và nhận ra rằng :

- Câu thơ số 5, số 10 và số 17 : mỗi câu là một loại kiếm pháp.

- Câu 6, 7, 8 : mỗi câu là một loại khinh công.

- Câu 9, 10, 16 : mỗi câu là một loại chưởng pháp.

- câu 13, 18, 20 : là công phu vận khí, luyện công.

Chàng học rất nhanh : có ngày học đến 3 môn ; có khi 18 ngày mới học xong một môn. Chàng luyện liên tục cho đến gian thạch thất thứ 23. Vậy cho đến nay, chàng ở trong động 75 ngày trọn.

* Gian thạch thất 24 :

- 23 gian đầu đều có đồ hình trên vách đá; gian 24 thì không có đồ hình, mà toàn chữ nghĩa.

- Tại đây, Long Mộc đảo chúa đang ngồi tịnh tọa.

- Các nét bút vừa nhìn vào thì liền choáng váng đầu óc. Nhìn kỹ ngưng thần thì thấy vô số nét bút biến thành những con nòng nọc chuyển động. Nếu chăm chú nhìn thì nòng nọc ngưng chuyển động.

Chàng thanh thản nhìn từng con nòng nọc, thấy nội tức nhảy nhót ở huyệt Chí Dương sau lưng, rồi đến Huyền Khu nối thành một sợi dây. Chàng tìm các con nòng nọc nhìn thế nào để mấy trăm huyệt đạo liên lạc với nhau thành một luồng nội khí thông với nhau thì toàn thân cảm thấy rất khoan khoái. Chàng trải qua ở thạch động 24 nầy đã 7,8 bữa ăn rồi.

Rồi đến một thời điểm nội khí trong người chàng cuồn cuộn dâng trào như một con sông lớn, chàng tự động phóng chưởng " Ngũ nhạc đảo vi khinh ", rồi tiếp sử kiếm pháp " Thập bộ sát nhất nhân " ( dù tay không có kiếm )... đi qua hết 24 câu trên bài thơ cổ.

Khi chàng đi qua một mạch đến câu 23 ( Thùy Năng thư các hạ ) thì nội công và khinh công hoà thành một khối ...

Rồi hàng vạn chiêu thức trên vách đá bỗng dưng từ vô thức mà phát ra không ngớt, cảm thấy lòng vui thích mà buột miệng la lên : " Thật là tuyệt diệu ! "

- Long Mộc đảo chúa chứng kiến sự thành tựu ấy cũng buột miệng kêu : " Quả nhiên tuyệt diệu ! " rồi sụp lạy chàng thiếu hiệp một lạy. Thạch Phá Thiên vội lạy đáp lễ.

Bấy giờ, Long, Mộc đảo chúa kiệt sức do vì cả hai liên thủ để đỡ chưởng phong do Thạch Phá Thiên đánh ra, mà không đỡ nỗi ( Sức mạnh nội lực của hai vị là vô song mà cũng kiệt sức )

- Sau đó, Thạch Phá Thiên xin dẫn hai vị đảo chúa trở lại từ động đá thứ nhất đến động 24 và cắt nghĩa ở mỗi động chàng đã làm gì và cho biết rõ chàng không biết chữ. Hai vị đảo chúa cảm tạ mà không đi, vì đã cùng bừng ngộ bí kíp : thì ra các văn tự trên đồ hình là vô dụng !

( thực tại ở ngoài văn tự, ngữ nghĩa )

Chẳng những vô dụng mà còn có hại nữa !

- Hai vị đảo chúa khuyên Thạch Phá Thiên giữ kín sự thành tựu, tuyệt nhiên không tiết lộ để tránh các nguy hiểm ở đời. Động đá bị chấn ,hỏng bởi chưởng phong của ba vị, không bao lâu nữa sẽ đổ. Hai vị liền " quy tiên "

- Chư quan khách được triệu tập mời lên thuyền rời đảo. v.v...

- Hai sứ giả hẹn gặp Thạch Phá Thiên ở đất liền để tiếp tục con đường hành hiệp.

B. Ý Kiến

24 động đá ở Hiệp Khách đảo và Phật học

1. Thạch Phá Thiên ở động thứ nhất và thứ hai cho đến động 23 :

- Trước khi đến các thạch động, Thạch Phá Thiên vốn đã thành tựu " La hán phục ma thần công " do tự huấn luyện thiền chỉ và thiền quán. Ở cấp độ thành tựu nầy, chàng thiếu hiệp đã gột sạch các tâm lý cấu uế, bất thiện.

- Thạch Phá Thiên có tâm lý vô dục, không vướng mắc vào tư biện, chữ nghĩa nên dễ đắc các định.

- Công phu chỉ nhìn các đồ hình là một hình thức thiền quán (Vipassana) của Phật giáo.

- Nhìn và nội khí tự vận hành qua các huyệt đạo cho đến khi tất cả các huyệt đạo trong nội thể đều thông suốt, tâm hoàn toàn xả, khinh an thì sự vật tự phô bày thực tướng duyên sinh của nó như chàng đã ngộ từ động thứ hai.

Cứ thế, lập đi lập lại nhiều lần cho đến động thứ 24 thì định lực sung mãn và cái tuệ thấy rõ sự thật duyên sinh sung mãn sẽ cắt đứt tất cả tâm lý ngăn che tâm thức để thể nhập chân lý (thực tướng). Đây là thành tựu sau rốt gọi là phá giải được bí kíp " Thái Huyền Kinh ".

2. Ý nghĩa của 9x9=81 nét bút xuôi, ngược trên đồ hình

Theo Phật học, cảnh giới chúng sinh có chín cảnh trước khi vào cảnh giới Phật ( giác ngộ thật pháp ); mỗi cảnh giới, mỗi chúng sinh có đủ 9 cảnh giới tâm; 9 cảnh giới chúng sinh sẽ có 9x9=81 cảnh giới tâm sai biệt mà hành giả cần chứng nghiệm.

3. Ý nghĩa 24 thạch động

- Qua mỗi thạch động thì công phu thiền quán của hành giả, và cả định lực, sẽ mạnh hơn, phát triển cao hơn. 24 thạch động là tượng trưng cho tâm thiền định của hành giả qua 24 cảnh giới tâm của cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; trước khi giác ngộ sự thật . Đó là :

- Cõi trời Dục giới có 6 : Tứ Thiên vương, Tam thập tam, Dạ ma, Đâu suất đà, Hoá lạc, Tha hoá tự tại.

- Cõi trời sắc giới có 14 :

Sơ thiền có 3 : Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm.

Nhị thiền có 3 : Thiện Quang, Vô lượng Quang, Quang Âm.

Tam thiền có 3 : Thiện Tịnh, Vô lượng Tịnh, Biến Tịnh.

Tứ thiền có 5 : Quảng Quả, Vô Tưởng, Vô Phiền, Vô Nhiệt và Thiện Hiện.

- Cõi trời vô sắc giới có 4 :

Khôngvô biên.

Thức vô biên.

Vô Sở Hữu.

Phi tưởng phi phi tưởng.

4. Hai vị đảo chúa Long, Mộc đã đến thạch động 24 đối mặt với một bản văn tự "Hiệp Khách Hành " tại đây hai vị rơi vào hai vướng mắc :

- Nghĩ là mình có thành tựu công phu qua 23 thạch động, đang kẹt vào tri kiến, và đang chờ đợi một tri kiến giải mã bí pháp. Đây gọi là chấp thủ tri kiến, theo Phật học.

- Hai vị đang mãi miết an trú vào cảm thọ lạc của thiền định nên đang bị vướng mắc vào Thọ uẩn, chưa có thể thắng vượt được Thọ và Tưởng nên không thể vào được đại định cao nhất gọi là Cữu định ( Diệt thọ tưởng định ) để giáp mặt với chân lý, giải thoát.

5. Hai vị đảo chúa khi biết Thạch Phá Thiên không biết chữ nghĩa, cả hai liền bừng tỉnh, sụp lạy Thạch Phá Thiên, chàng kiếm hiệp lạy đáp lễ. Tâm thức cả ba vị bấy giờ đang reo vui như đang vang vọng đoạn kinh cuối của bài Bát Nhã Tâm Kinh :

" Qua rồi, qua rồi, hoàn toàn đã qua rồi,

Tất cả hoàn toàn đã qua rồi. Ôi giải thoát ! "

( Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế,

Bồ đề tát bà ha )

Đó là thời điểm sinh tử, khổ đau sụp đổ như là hình ảnh 24 động đá bị chấn động vỡ và sắp sụp đổ !

6. Bản văn "Hiệp Khách Hành"

- Theo giáo lý nhà Phật, thế giới chân thật là thế giới vô ngã ở ngoài mọi ngã tính cố định. Do ở ngoài các ngã tính cố định, nên ở ngoài thế giới ý nghĩa của khái niệm, của lý luận, huyền đàm.

Kinh Kim Cương dạy :

Đoạn 17 c : Này Tu-Bồ-Đề, Như Lai đồng nghĩa với như tính ( suchness )

Đoạn 17 d : " ... Vì pháp mà Như Lai chứng đắc và tuyên thuyết thì không phải thật, không phải hư. Cho nên Như Lai dạy tất cả pháp đều là pháp đặc biệt và riêng của Như Lai "

Như thế, dưới cái nhìn không chấp thủ ngã tướng, thì các pháp đều xuất hiện như thực, là thực tại như thực.

Đoạn 26 b : ( Bản dịch của Edward Conze )

" Nên thấy chư Phật ở các pháp,
Nên thấy sự chỉ giáo của chư Phật ở pháp thân,
Nhưng thực tính của các pháp không thể nhận thức,
Và không ai có thể nhận thức thực tính như một đối tượng "

Bài cổ thi của Lý Thái Bạch, " Hiệp Khách Hành ", là bài thơ thế tục, nếu được nhìn với cái nhìn ngã tính, ngã tướng ( nhìn với văn tự và ý nghĩa ): nó là như thực, nếu được nhìn với cái nhìn không chấp thủ như cái nhìn thuần khiết của Thạch Phá Thiên. Bấy giờ, với chàng thiếu hiệp, " Hiệp Khách Hành " qủa thật là " Thái Huyền Kinh ", tương tự các dòng Kinh Kim Cương đã nói rằng :

" Nếu thấy ta qua sắc tướng
Cầu Ta qua âm thanh,
Thì người ấy làm sai
Sẽ trọn không thấy Ta "

( " Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Chung bất kiến Như Lai " )


XXII. Hồi 21: Ta là ai ?

A. Tóm tắt Hồi 21
- Thuyền sắp cập bến thì liền thấy Sử bà bà và A Tú từ đỉnh núi phóng xuống biển, Thạch Phá Thiên liền phóng ngay ra một tấm váng thuyền và sử dụng khinh công thượng thừa vượt đến đón bắt : chàng giữ lại A Tú, và dùng lực đẩy Sử bà bà lên thuyền cho Bạch Tự Tại.

- Vừa đến bờ, Đinh Bất Tứ và Mai Văn Hinh đi núi Hùng Nhĩ tìm con.

- Nhóm Thạch Thanh - Mẫn Nhu, Bạch Tự Tại, Sử bà bà, Bạch Vạn Kiếm, Thạch Phá Thiên và A Tú cũng đến Hùng Nhĩ tìm Mai Phương Cô để xoá nợ cũ.

- Không ngờ Mai Phương Cô là " má má " của Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) và ngôi nhà trên đỉnh Hùng Nhĩ là nhà của chàng sống từ nhỏ với chó A Hoàng.

- Một cuộc hội diện bất ngờ, sau một xung đột nhỏ bằng lời và bằng kiếm, thì Thạch Phá Thiên cầu xin Thạch Thanh - Mẫn Nhu đừng báo thù " má má ". Mẫn Nhu thông cảm với nỗi khổ thâm trầm của Mai Phương Cô, bà trở nên không thù, không hận nữa.

- Sau khi biết rõ sự tình Thạch Thanh không đến gần nàng là bởi nàng giỏi hơn chàng nhiều mặt : võ, văn và tài nấu nướng. Nàng thất vọng tự vẫn và để lộ dấu son xử nữ trên cánh tay người con gái còn nguyên: điều nầy nói lên rằng Thạch Phá Thiên không phải là con của nàng và Thạch Thanh, mà là chính bé Thạch Trung Kiên nàng đã cướp đi từ hồi một tuổi.

- Câu chuyện kết thúc đau buồn từ nhiều phía : Chàng thiếu hiệp tự mình còn mơ hồ về lai lịch của mình !

B. Ý Kiến

1. Cẩu Tạp chủng lớn lên từ núi Hùng Nhĩ, lưu lạc rời xa Hùng Nhĩ, rồi thành tựu công phu võ công thượng thừa lại trở về cảnh cũ của núi rừng Hùng Nhĩ. Đây là hình ảnh gợi lên trong người đọc giai thoại Thiền của đại thi hào Tô Đông Pha trong văn học Thiền, rằng :

" Khói tỏa Lô sơn, sóng Triết giang,
Khi chưa đến đó, những mơ màng.
Đến rồi lại thấy không gì khác
Khói tỏa Lô sơn, sóng Triết giang "

( " Lô sơn yên tỏa Triết giang triều,
Vị đáo sanh tiền hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều " )

Đấy là ý nghĩa :

1. Khi chưa tu, thì núi là núi... ( Hùng Nhĩ )

2. Khi đang tu, núi không phải là núi... ( Hùng Nhĩ )

3. Khi tu xong, núi vẫn là núi ... ( Hùng Nhĩ )

1' --> Núi Hùng Nhĩ của bé Cẩu Tạp chủng ...

2'-- > Núi Hùng Nhĩ chìm vào lãng quên ( rời xa )...

3'--> Núi Hùng Nhĩ của chàng thiếu hiệp Thạch Phá Thiên (hay Thạch Trung Kiên)

đạt đạo...

2. Ta là ai ?

- Mai Phương Cô tự vẫn. Vết son xử nữ trên tay nàng còn nguyên, xác định Thạch Phá Thiên ( Cẩu Tạp Chủng ) không phải là con nàng và Thạch Thanh ( bởi Cẩu Tạp Chủng rất giống Thạch Thanh ).

Bất giác Thạch Phá Thiên liền miệng hỏi : Ta là ai ?

- Đấy là câu hỏi rất triết và rất đạo dành cho mọi người hiện diện trên đời : để tự thức tỉnh biết rõ mình, tâm thức, tình cảm, hiểu biết đang ở đâu ?

- Đấy là câu hỏi có hai tiếng rất quan trọng : Ta và Ai bao hàm sự có mặt của một ngã tướng, ngã tính.

Chính cái Ta và cái Ai là đầu mối của mọi tranh chấp, rối loạn trên chốn giang hồ mà " Hiệp Khách Hành " đã ghi lại, và ghi rất đậm nét !

Để xoá tan các khổ đau, bất an ở đời, công việc chính của văn hoá là xóa tan ýniệm về Ta và về Ai trong tư duy của con người. Thực tại thì trôi chảy không ngừng nên không hề có mặt một " cái Ai " nào. Ý niệm về Ta, về Ai chỉ là một vọngtưởng, mà " Thái Huyền Kinh " đã làm nổ tung ở thạch thất thứ 24, khi Thạch Phá Thiên hoàn toàn nhiếp niệm thể nhập với thực tại. Vọng tưởng ấy sẽ tan biến nếu hành giả biết lắng nghe tiếng nói Duyên sinh, Vô ngã thường nói của gió, trăng, mây, nước, âm thanh, ánh sáng, và của thân tâm mỗi người. Nghe như thế là nghe bằng lỗ tai của thực tại , mà không phải bằng lỗ tai máu thịt của con người, gọi là Hùng Nhĩ mà không phải là nhục nhĩ ! Biết lắng nghe như biết nghe và nhìn theo chỉ dẫn của bài kệ cuối Kinh Kim Cương :

" Hãy khởi lên cái nhìn :
Hết thảy hiện hữu bị làm ra
Là như mộng, như huyễn, như bọt nước
Như sương mai, như ánh chớp "

( " Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán " )


TỔNG LUẬN
Nét văn hóa Phật giáo trong "Hiệp Khách Hành"




I - Khái quát
- Câu truyện là một chuỗi vận hành của nhân duyên:

Cẩu Tạp Chủng rời núi Hùng Nhĩ đi tìm mẹ - Gặp Huyền Thiết Lệnh và quái nhân Tạ Yên Khách - Gặp Đại bi lão nhân tặng pho tượng La hán là bí kíp nội công " La hán phục ma thần công " do các thần Tăng Thiếu Lâm sáng tạo - Theo Tạ Yên Khách đến sống ở Ma Thiên Lãnh, luyện nội công " La hán phục ma " - bị bắt về Trường Lạc Bang làm bang chủ. Truyện tiếp tục theo bước chân của Cẩu Tạp Chủng ghi lại các chuyện xẩy đến chung quanh chàng thiếu hiệp trên chốn giang hồ, và những diễn biến của tâm thức chàng như là hương hoa Phật giáo để lại trên một vùng văn hóa rộng: Núi Hùng Nhĩ, Ma Thiên Lãnh, Quan Đông, Lăng Tiêu, Hiệp Khách đảo. Đó là lộ trình tu tập để chuyển đổi tâm lý qua nhiều giai đoạn:

- Tu tập hạnh đức : chuyển đổi tâm lý vị kỷ thành vị tha, từ cấu uế đến thiện.

- Tu tập tâm đức : phát triển từ thiện tâm đến các tâm thiền định thuộc Sắc giới, Vô sắc giới, vượt qua các sầu, bi, khổ, ưu não.

- Tu tập tuệ đức : từ định tâm, hành thiền quán để vào Diệt thọ tưởng định phát sinh trí tuệ giải thoát thể nhập sự thật, dập tắt khổ đau.

Con đường chuyển đổi tâm lý cá nhân ấy là cơ sở để xây dựng văn hóa xã hội dưới hai hình thức :

- Hình thức tiêu cực : cá nhân sống lương thiện, không gây ra các rối ren cho tha nhân và xã hội.

- Hình thức tích cực : hành hiệp giúp đời.

II. Xây dựng Hạnh đức

Cẩu Tạp Chủng bẩm tính thuần lương, chân thật, vị tha và thông sáng, lớn lên trong môi trường văn hóa tự nhiên của núi rừng Khô Thảo Lãnh và Ma Thiên Lãnh, ở ngoài vòng tiêm nhiễm của thị phi, được mất, hơn thua, khen chê, dối gạt, hận thù, đố kỵ, ganh ghét, tâm lý phát triển theo hướng thiện lương.

Với các cá nhân khác trong xã hội, thì công phu huấn luyện phải kiểm soát, chế ngự được năm loại tâm lý vốn là tác nhân sinh ra các tâm lý bất thiện khác, là :

- Tâm lý trạo cử : tâm thiếu tập trung, không ổn định, dao động.

- Tâm lý hôn trầm : tâm lý mệt mỏi, thụ động, lười biếng.

- Tâm lý tham dục : ham muốn hưởng thụ sắc, thanh, hương vị, và xúc.

- Tâm lý sân hận : vội vã, nóng nảy, tức bực.

- Tâm lý nghi ngờ : tánh phân vân, mê mờ, chấp ngã, tà kiến.

III. Xây dựng Tâm đức

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng tập luyện nội công theo các huyệt đạo, kinh mạch được chỉ dẫn trên 18 tượng đất là thời gian tu tập Tâm đức. Thành tựu bước luyện công nầy là thành tựu Tâm đức phát sinh các tâm lý khinh an, hỷ, lạc; rời khỏi các tham, ưu ở đời.

Đây là công phu Thiền chỉ (Samatha) của Thiền định Phật giáo.

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng vận khí theo các đường kinh mạch trên 18 tượng gỗ là thời gian hành thiền quán (Vipassana), hay Chỉ, Quán song hành, dẫn đến kết quả tâm thanh tịnh và thấy biết đúng theo sự thật của sự vật hiện hữu. Kim Dung gọi kết quả này là thành tựu rực rỡ " La hán phục ma thần công ".

IV. Xây dựng Tuệ đức

- Công phu nầy hiện rõ từ thời điểm Cẩu Tạp Chủng biết rõ âm mưu của Bối Hải Thạch và các Hương chủ Trường Lạc Bang mà vẫn khởi đại từ tâm chấp nhận làm bang chủ bang Trường Lạc để đi vào hiểm nguy: dự hội yến Lạp Bát.

- Công phu Chỉ - Quán song hành trên đảo Hiệp Khách : Chú tâm tỉnh giác vào các đồ hình trên vách đá của 24 thạch động cho đến thời điểm giải ngộ bài cổ thi " Hiệp Khách Hành " là công phu xây dựng Tuệ đức.

Tại động 24, Cẩu Tạp Chủng nhiếp phục hoàn toàn các cảm thọ và các niệm tưởng - Nghĩa là hoàn toàn kiểm soát, chế ngự năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức - đi vào định cao nhất: Diệt Thọ Tưởng định. Trí tuệ giải thoát thấy rõ sự thật Duyên sinh, Vô ngã của con người và thế giới bừng tỏa từ định nầy.

V. Xây dựng các Tâm giải thoát

1. Tâm đại từ đại bi

- Bản tâm của Cẩu Tạp Chủng vốn đã thiểu dục vị tha. Các cảnh khổ hoạn trên giang hồ đã giúp chàng mở rộng từ tâm và bi tâm, không quản ngại gian khó, đi vào cứu giúp tha nhân như cứu Sử bà bà, A Tú, Bạch Vạn Kiếm, Đại bi lão nhân, Tứ đại bang chủ ở Quan Đông, Bạch Tự Tại, kiếm phái Tuyết Sơn, bang Trường Lạc, Thạch Trung Ngọc, và cả hai sứ giả "Thưởng thiện Phạt ác" tại Thiết Xoa Hội.

Tâm đại từ, đại bi có tác dụng mở lớn tâm thức hành giả để cảm nhận hạnh phúc thanh khiết vô bờ, vừa làm lắng dịu hận thù trong xã hội, tỏa sáng tình người, tỏa sáng nền văn hóa nhân bản.

2. Tâm không cố chấp (Không chấp thủ)

Cẩu Tạp Chủng sống hồn nhiên với thái độ tâm lý không thấy gì là ta, là của ta, dễ dàng chia xẻ với các người chung quanh mà không nệ hơn, thiệt. Chàng ngạc nhiên thấy các người khác hại nhau vì lợi lộc và quyền thế. Tâm không chấp thủ ấy là đối trọng của tâm lý vì ngã nhan nhản trên võ lâm, giang hồ.

Đây là điều đáng quan tâm của các nhà văn hóa thời đại mới.

3. Hiểu mình và hiểu thế giới

Câu hỏi mà Cẩu Tạp Chủng liên miệng hỏi " Ta là ai ? " không chỉ liên hệ ý nghĩa "má má ta là ai ? ", " gia gia ta là ai ? ", ta là người đã lớn lên ở núi Hùng Nhĩ chăng? mà còn gợi lên ý nghĩa rằng : ta là thân thể vật lý ư ? là tâm lý ? sinh lý ? tình cảm? tư duy - hiểu biết ? hay ta làøbao gồm tất cả các thứ ấy ? Có cái ta riêng lẻ để phục vụ không ?

Đấy là các câu hỏi đeo đẳng mãi với con người cho đến thời điểm chứng nhập chân lý.

Kim Dung đã nhẹ nhàng hình dung ra câu trả lời là toàn bộ quá trình phát triển tâm lý của Cẩu Tạp Chủng, giữa khi các hàng cao thủ thì vướng vào tranh cãi chỉ một cái ta vật lý của chàng. Tác giả đã cho thấy sự sống không phải là các câu hỏi và trả lời về cái ta; mà là thực tại của mối tương quan nhân duyên không cùng tận đang giàn trải chung quanh ta. Chỉ có một sự thật rõ ràng nhất mà con người phải thường xuyên đối mặt là giải quyết các phiền não, khổ đau, và khát vọng hạnh phúc không khi nào vơi.

Theo giáo lý nhà Phật, con người hiện tượng là tập hợp không cách ly của năm nhóm :

- Thân thể vật lý, hay sắc uẩn (gồm cả thế giới vật lý);

- Các cảm thọ khổ, lạc, không khổ không lạc, hay thọ uẩn;

- Các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, hay tưởng uẩn;

- Các tư duy, tư niệm về sắc, thinh, hương, vị xúc, và pháp, hay hành uẩn;

- Các thấy biết, nhận thức đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, hay thức uẩn.

Cái gọi là Ta do năm nhóm trên tập hợp thành rõ ràng là liên hệ chặt chẽ với tha nhân, xã hội và môi sinh: tách khỏi tha nhân, xã hội và môi sinh thì cái ta không thể có mặt.

Trong tập hợp năm nhóm ấy có thể phát hiện trí tuệ giải thoát và tâm lý giải thoát mà Kim Dung tin tưởng, đã đưa đến sự giải ngộ qua 24 thạch động.

Thấy rõ sự thật ở tự thân, hay ở ngoại cảnh, đều cùng lúc thấy rõ sự thật của thế giới, bởi chân lý không thể có hai. Sau khi kinh nghiệm về sự thật vô ngã ấy, các hiệp khách vong ngã một cách tự nhiên, và hành hiệp một cách tự nhiên, bởi bằng con đường hành hiệp, các hiệp khách có nhiều nhân duyên để tiếp cận nguồn hạnh phúc không tên và không giới hạn. Nếu hành động khác đi, nghĩa là nuôi dưỡng tự ngã (cái ta) và dục vọng thì sẽ đẩy mình và người vào rối ren, khổ não như đã từng kinh nghiệm.

" Hiệp Khách Hành " đã gián tiếp giới thiệu với độc giả các cái ta lạc lõng, bi thương trải khắp toàn truyện, như :

- Cái ta tự cao tự đại thành cuồng của Bạch Tự Tại;
- Cái ta si tình của Mai Phương Cô, Đinh Bất Tứ;
- Cái ta ác loạn của Đinh Bất Tam;
- Cái ta phóng đãng của Thạch Trung Ngọc, Đinh Đang;
- Cái ta cố chấp của Tạ Yên Khách, Sử bà bà;
- Cái ta ước lệ hẹp hòi của Bạch Vạn Kiếm;
- Cái ta của giá trị văn hóa cổ xưa của bốn đại môn chủ ở Quan Đông;
- Cái ta trung chính của Thạch Thanh, Mẫn Nhu;
- Cái ta hiền hậu rất nhân thế của A Tú;
- Cái ta rất hào hiệp và có phần chấp thủ của Trương Tam, Lý Tứ;
- Cái ta vô dục, vô chấp, vị tha của Cẩu Tạp Chủng v.v... ( đây là cái ta duy nhất của niềm tin của văn hóa trí tuệ và nhân ái)

4. Sống hạnh phúc :

- Sống là đi tìm hạnh phúc là sự hiển nhiên.

Người ta sinh ra không phải để khổ đau. Thế nên, giới thiệu các thái độ sống đem lại các cảm nhận hạnh phúc cho cá nhân và tập thể là sứ mệnh của văn hóa.

" Hiệp Khách Hành ", hầu như đặt niềm tin giáp mặt chân lý và hạnh phúc vào con đường thiền định và trí tuệ của Phật giáo - Nói của Phật giáo mà một cách nói; thật ra đó là con đường tâm thức của mọi người - . Con đường đó đã đươc phản ảnh ở Bồ tát Quán Thế Âm trong phẩm kinh Phổ Môn ( Cách cửa vào sự thật của thế giới ), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như đoạn kệ giới thiệu dưới đây:

"Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán,
Bi quán cập từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Bi thể, giới lôi chấn,
Từ ý, diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm "

Dịch nghĩa:

Hãy nhìn thấy sự thật duyên sinh,
Vô ngã của các pháp,
Nhìn với trí huệ lớn,
Nhìn với tâm đại từ, đại bi
Hãy thường tư duy, niệm tưởng như vậy,
Ánh sáng vô cấu của tâm thức sẽ xuất hiện
Trí tuệ, như mặt trời, sẽ phá tan hôn ám
Xua tan các tai nạn
Chiếu sáng khắp thế gian.
Tâm bi như kéo về sấm chớp,
Tâm từ như mây lớn bủa ra
Cho xuống cơn mưa pháp thanh lương
Dập tắt lửa phiền não.

Cái nhìn đầy đủ sức mạnh của trí tuệ và từ bi ấy hệt như cái nhìn tập chú của Cẩu Tạp Chủng dán chặt vào 24 đồ hình và chữ nghĩa trên vách đá của 24 thạch động (chàng nhìn với tâm tuệ và tâm từ của chàng), tỏa sáng sự giải ngộ bí kíp mà Long, Mộc nhị vị đảo chúa đã phải chờ đợi suốt 40 năm, phải chăng ?

- Hạnh phúc, phải chăng có mặt trong cái nhìn ấy, cái nhìn không dính mắc vào bất cứ gì ở đời, đã bùng vỡ trong tiếng la đầy niềm hoan lạc của Thạch Phá Thiên và Long Mộc đảo chúa vào thời điểm cuối của thạch động thứ 24:" Thật là tuyệt vời!" và " Quả thật là tuyệt vời ! " ? Cái nhìn tương tự kinh Kim Cương Bát Nhã diễn đạt : " Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm " (hãy khởi lên cái tâm lý không dính mắc).

Với tâm lý " không dinh mắc vào bất cứ gì " ấy, các hiệp khách dễ dàng đối mặt với các vô thường, hiểm nguy ở đời. Bấy giờ bốn mùa vẫn vận hành như từng vận hành, nhưng vắng bóng các ngã niệm, các sầu ưu. Bấy giờ, ở đó, là điểm hẹn của ba đại hiệp khách : Trương Tam, Lý Tứ và Thạch Phá Thiên tiếp nối gieo vãi các hạt giống tỉnh thức với thái độ của Châu Hợi, Hầu Doanh ngày trước :

" Việc xong rũ áo ra đi ;
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm "
( " Sự liễu bất y khứ ;
Thâm tàng thân dữ danh " )

Viết xong ngày 25/9/2003
Chùa Tường Vân, Huế
Tỷ kheo Thích Chơn Tìện