Thi Ẩm Lâu

Phiên bản đầy đủ: Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà : Thiên tình sử Nước Nam.
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Bạn có thể xem bản đầy đủ.
Trong văn học nước Nam, có những chuyện tình có gốc tích Trung Quốc nhưng vì đã quá thân thuộc nên dân ta có cảm giác là của nước mình, như Kim trọng – Thúy Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga. Nhưng cũng có trường hợp thiên tình sử rất đẹp của nước Nam, nhưng lại bị tưởng là của Trung Quốc. Người mộ điệu cải lương nào mà không biết bài ca cổ “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà” của soạn giả Viễn Châu.


Cách đây hơn 40 năm, khi bắt đầu biết đọc chữ, tôi đã dùng mấy đồng tiền ăn quà để mua tờ giấy in bài ca cổ này bày bán trên nền chợ trước trường học. Tôi đã thuộc lòng và thỉnh thoảng lại hát bài ca nói về chuyện tình lãnh mạn và bi tráng đẹp như cổ tích của Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà. Thế nhưng, tôi cũng như nhiều người mộ điệu cải lương, cứ lầm tưởng đây là tích truyện Tàu nào đó thuộc đời Tống, đời Đường, giống như Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Lữ Bố - Điêu Thuyền, Phạm lãi – Tây Thi…Cho tới một lần, tôi về thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang), ghé thăm miếu thờ Võ Tánh, người đã phò chúa Nguyễn Ánh gầy dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn, và thú vị biết rằng câu chuyện Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà là của dân mình, rất gần gũi với đất Nam bộ quê tôi.

Về Gò Công nghe chuyện Võ Đông Sơ

Từ thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) đi về phía biển gần 40 cây số là tới thị xã Gò Công, vùng đất đã từng cống hiến cho triều Nguyễn 2 bà hoàng hậu là bà Từ Dũ và Nam Phương Hoàng Hậu. Tiếp tục đi về hướng biển thêm khoảng 5 cây số là đến ấp Gò Tre – xã Long Thuận – thị xã Gò Công. Đây là vùng đất nổi tiếng với trái sơ ri. Bên con đường nhựa nhiều xe cộ qua lại, cạnh gốc cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, giữa khu vườn cây dại mọc um tùm là ngôi cổ miếu nhỏ dột nát, rêu phong, trên tấm biển ghi: Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh – Miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh, thân sinh của chàng trai Võ Đông Sơ trong câu chuyện tình nói trên.

Sử sách ghi rõ: Võ Tánh sinh năm 1768, quê gốc ở làng Phước Tỉnh thuộc tỉnh Trấn Biên (nay là Bà Rịa – Vũng Tàu). Cha mẹ mất sớm, Võ Tánh cùng với người nhũ mẫu trôi dạt về vùng Gò Công ngày nay. Nhờ sức khỏe hơn người, Võ Tánh khi lớn lên trở thành chàng trai khỏe mạnh, giỏi võ và gan dạ.
Vùng Gò Công khi ấy còn nhiều cọp, cá sấu, Võ Tánh đã đã tập hợp thanh niên trong vùng thành lập “đoàn quân nghĩa dõng” tổ chức đánh cọp, diệt cá sấu để đem lại cuộc sống yên bình cho người dân. Vùng đất một bên là biển, một bên là rừng này cũng là nơi tụ tập, hoạt động của nhiều băng nhóm trộm cướp, “đoàn quân nghĩa dõng” của Võ Tánh cũng thường xuyên trấn áp trộm cướp, trừ gian diệt bạo, giữ an lành cuộc sống cho người dân vùng Gò Công.

Vùng đất heo hút Gò Công không trói buộc nỗi chí trai, Võ Tánh đã cùng “đoàn quân nghĩa dõng” do mình tổ chức giương cờ phò Chúa Nguyễn Phúc Ánh trong cuộc đối đầu với anh em nhà Tây Sơn. Sau khi lập nhiều chiến công, Võ Tánh được Chúa Nguyễn Ánh gả em gái là công chúa Ngọc Du, họ có được 1 đứa con trai đặt tên là Võ Đông Sơ.


Miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh.

Nhờ lập được nhiều công trạng, Võ Tánh rất được Chúa Nguyễn Ánh tin dùng, được giao trấn thủ thành Bình Định, là thành tiền tiêu, có ý nghĩa chiến lược trong cuộc đối đầu Nguyễn Ánh – Tây Sơn. Đến khi quân Tây Sơn bao vây thành với lực lượng hùng hậu, trong khi lực lực cứu nguy của Nguyễn Ánh đã bị chia cắt, biết không thể đương đầu trong cuộc chiến không cân sức, Võ Tánh đã chủ động gửi thư cho quân Tây Sơn xin đừng tàn sát binh sĩ, ông sẽ đầu hàng và nộp thành.

Được sự chấp nhận và cam kết từ phía Tây Sơn không giết hàng binh, ngày 7.7.1801 Võ Tánh đã uống chung rượu tiễn biệt với binh sĩ, rồi lên trên tường thành tự thiêu trước sự chứng kiến của quân sĩ hai bên. Các tướng lĩnh Tây Sơn không chỉ giữ đúng lời hứa không giết hại binh sĩ bại trận, mà còn tỏ thái độ khâm phục nghĩa cử anh hùng của Võ Tánh. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi Vua vào năm 1802, một trong những quyết định đầu tiên là truy tặng Võ Tánh danh hiệu “Dực vận Công thần Thái úy Quốc công”. Về sau Vua Minh Mạng truy phong Võ Tánh là Hoài Quốc Công.

Sau khi Võ Tánh qua đời, người dân Gò Công đã lập miếu thờ để ghi nhớ công ơn của ông đối với vùng đất này cũng như chí khí anh hùng của ông khi một mình tự thiêu để cứu ba quân. Về sau, chàng thanh niên Võ Đông Sơ khi đã trưởng thành đã một mình phi ngựa từ Bình Định vào Gò Công thăm quê cha và ghé đốt nhang, ngủ đêm trong ngôi miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh. Hàng năm vào các ngày 26 và 27 tháng 5 âm lịch, người dân Gò Công tổ chức cúng Võ Tánh khá tươm tất như là một lễ hội nhỏ trong vùng. Năm 2005 miếu thờ Võ Tánh được công nhận Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh.

Tình sử Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà

Tôi đã một lần về Gò Công ở đêm để dự ngày giỗ Hoài Quốc Công Võ Tánh. Giỗ Võ Tánh thường được Ban Quản trị ngôi miếu tổ chức từ chiều hôm trước đến trưa hôm sau. Đêm hôm đó bao giờ cũng có chương trình đờn ca tài tử kéo dài đến tận khuya. Có một bài hát không thể thiếu trong chương trình ca hát là bài Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.

Đã bao lần nghe bài hát này với giọng hát của nam danh ca Minh Cảnh, nhưng khi được nghe hát ngay dưới miếu thờ Võ Tánh, nơi đã từng đón bước chân Võ Đông Sơ, tôi thấy cảm xúc dâng trào: “Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi - Đường dài mịt mùng em không đến nơi - Mây nước buồn cơn lửa binh - Hết kể chuyện chung tình – Khóc than riêng em một mình…Trời ơi bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn, nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu Hà!”.

Những người cao tuổi còn hát được trích đoạn trong vở tuồng Giọt máu chung tình (cũng nói về chuyện tình Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà) từng rất nổi tiếng vào thập niên 1930 do đoàn hát Huỳnh Kỳ của Bạch công tử Lê Công Phước dàn dựng, vai Bạch Thu Hà do chính cô Bảy Phùng Há thủ diễn.

Vào khoảng đầu thập niên 1960, ở Sài Gòn xuất hiện cuốn sách nhỏ (có hình minh họa) viết về tình sử Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà. Cuốn sách ghi rõ: Võ Đông Sơ là con của Hoài quốc Công Võ Tánh và công chúa Ngọc Du; Bạch Thu Hà là con quan Tổng trấn Tây Thành. Sau khi Võ Tánh và Ngọc Du lần lượt qua đời, Võ Đông Sơ sống với người chú ruột tại Bình Định.

Khi Triều đình mở khoa thi để chọn tướng tài dẹp giặc ngoài biển Đông, Võ Đông Sơ lên đường ứng thí. Dọc đường, chàng trai họ Võ đã ra tay đánh cướp cứu tiểu thư Bạch Thu Hà trên đường đi lễ chùa gặp nạn. Dưới ánh trăng rằm, bên ngôi cổ tự, hai người đã thề nguyện chuyện trăm năm, hẹn ước về một cuộc trùng phùng…Sau đó Võ Đông Sơ thi đỗ và lãnh quân đi dẹp giặc. Ở nhà Bạch Thu Hà bị gia đình bắt phải lấy chồng nên đã bỏ trốn khỏi nhà, thân gái phiêu bạt với nhiều gian truân.

Khi hay tin Võ Đông Sơ tử trận, Bạch Thu Hà quyên sinh để giữ trọn niềm trung trinh với người tình. Chuyện tình có thật Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà gần giống với chuyện tình trong văn học Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga được nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu sáng tác sau đó, nhưng chuyện tình Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga kết thúc “có hậu” hơn, dù trải qua bao thăng trầm, cuối cùng đôi “trai tài gái sắc” đã có cuộc trùng phùng, chứ không “vĩnh viễn chia ly” như Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà.


Nhà hội (trong quần thể miếu thờ Võ Tánh) trong tình trạng hư hỏng nặng.
Từ câu chuyện tình này, soạn giả Viễn Châu đã viết 2 bài ca cổ “Võ Đông Sơ” (Minh Cảnh hát) và “Bạch Thu Hà” (Lệ Thủy hát), trong đó bài “Võ Đông Sơ” đã trở nên quen thuộc với mọi người yêu thích ca cổ, trong đó có những đoạn: “Bạch Thu Hà, Bạch Thu Hà ơi! Nàng đã bao phen vượt suối trèo non để giữ vẹn tiết trinh, ta mấy bận lao mình trong nắng gió. Chuyện hàn huyên chưa cùng nhau cạn tỏ, thì giọt máu chung tình đã nhuộm thấm chinh y. Từ đây hết nợ hết duyên, hết ân hết ái, lưỡi gươm thiêng ta xin gởi lại cho người yêu lý tưởng Bạch Thu Hà…”.

Chuyện tình đẹp là chuyện tình buồn

Những chuyện tình kết thúc trong đau thương như “Romeo – Juliet” (ở nước Anh), “Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài” (Trung Quốc) hay “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà”, “Lan và Điệp” (ở nước ta) luôn là niềm cảm hứng cho các môn nghệ thuật và sống mãi với thời gian.

Người đời ghi nhớ những câu chuyện tình đó vì nó là biểu tượng của sự thủy chung và quá đau thương. Nhưng theo tôi, còn có lý do quan trọng khác nữa là: ngầm nhắc những người trong cuộc của các mối tình trọn vẹn hãy biết quý trọng hạnh phúc mà mình đạt được! Với ý nghĩa đó, tình sử “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà” sẽ có giá trị mãi với đời. Người đời sau sẽ còn hát bài ca về câu chuyện tình của họ như là cách bày tỏ khát vọng về hạnh phúc, tình yêu, lòng thủy chung.

Ngôi miếu thờ Võ Tánh lại là một câu chuyện khác. Ngày trước, người dân tự giác lập miếu thờ Võ Tánh như là cách họ bày tỏ lòng biết ơn và ngưỡng mộ đối với người đã có công trấn áp trộm cướp, giữ yên lành cho cuộc sống người dân Gò Công, người đã có hành động anh hùng hi sinh thân mình để cứu ba quân. Họ hàng ngày nhang khói, hàng năm cúng giỗ tươm tất, chăm sóc chu đáo, giữ gìn khang trang ngôi miếu (được trùng tu năm 1956)…Thế nhưng, hiện miếu thờ Võ Tánh đang xuống cấp nặng, khu di tích trở nên hoang tàn: nhà hội (kề bên miếu) có thể sụp đổ bất cứ lúc nào; ngôi miếu chính bị dột nát; khuôn viên miếu đầy cây dại…

Nguyên nhân của sự xuống cấp, theo ông Phạm Hồng Hiếu, thành viên Ban Quản trị Miếu Võ Tánh, người trực tiếp hàng ngày nhang khói ngôi miếu, do ngôi miếu đã là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, được sự bảo trợ và quản lý của ngành văn hóa địa phương, người dân không được quyền tùy tiện tác động vào hiện trạng ngôi miếu. Sự vận động đóng góp tu sửa miếu cũng khó hơn trước, do tâm lý chờ đợi nguồn vốn của Nhà nước. Trong khi đó, nguồn vốn của Nhà nước thì có giới hạn, mà tỉnh Tiền Giang nói chung và vùng đất Gò Công nói riêng lại có quá nhiều di tích cần được bảo dưỡng, duy tu.

Như Thủy (Phunutoday)

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Tan-co-Vo-Don...BE9IA.html
Tác giả Như Thủy này viết bài này thật sự chỉ là nghe kể miệng hoặc phỏng đoán nên vội vàng nói chuyện Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà là có thật.

Trước tiên xin nói về Võ Tánh, một cựu thần của Gia Long Nguyễn Ánh theo tài liệu dựa trên Wikipedia và một số nguồn khác:

Võ Tánh là một danh tướng đời nhà Nguyễn . Vì không chịu thần phục nhà Tây Sơn, ông cùng với người anh là Võ Nhàn phất cờ khởi nghïa tại thôn Vườn Trầu (Gia Định), rồi kéo quân chiếm giữ cả vùng Gò Công . Nghĩa quân có đến hàng vạn người, còn được gọi là đạo quân "Kiến Hạ".

Theo về với Nguyễn Vương từ năm 1788, ông được phong làm Tiên Phong Dinh Khâm Sai Chưởng Cơ . Từ buổi đầu , Võ Tánh đã giúp cho Nguyễn Vương lập nhiều công trận , được Nguyễn Vương tin yêu , gả em gái là công chúa Ngọc Du cho ông .

Ông đã đánh bại tướng Tây Sơn Đào Văn Hồ , đoạt thành Diên Khánh vào năm 1790.

Năm 1793, Võ Tánh được thăng chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ Giá. Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành (1794). Sau đó ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân .

Năm 1797, ông theo Nguyễn Vương ra đánh Quảng Nam. Thừa thắng, ông vượt qua sông Mỹ Khê (Quãng Ngãi) đánh bại Đô Đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Giáp.

Năm 1799, ông lại theo Nguyễn Vương ra Quy Nhơn lần nữa. Vào cửa bể Thị Nại, Võ Tánh và Chưởng Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức thắng quân Tây Sơn tại Thị Giả, rồi tại cầu Tân An, giết được Đô Đốc Tây Sơn Nguyễn Thiệt. Đô Đốc Lê Chất xin hàng, xin làm thuộc tướng của Võ Tánh. Ông chận đánh quân của Thái Phó Tây Sơn là Lê Văn Đông tại làng Kha Đạo, bắt được 6000 quân Tây Sơn và 50 thớt voi. Các tướng Tây Sơn là Lê Văn Thanh và Nguyễn Đại Phát phải mở cửa thành Qui Nhơn xin hàng.

Thành Qui Nhơn được ông đổi tên là thành Bình Định.

Khi quân Nguyễn Vương rút về Gia Định, giao thành cho Hậu Quân Võ Tánh và Lễ Bộ Tham Tri Ngô Tùng Châu ở lại lo việc phòng thủ. Chẳng bao lâu, Đại quân Tây Sơn, dưới quyền chỉ huy huy của Thái Phó Trần Quang Diệu đến vây thành. Nguyễn Vương đưa binh ra giải cứu không nổi, cuộc bao vây mãi kéo dài đến 14 tháng . Lâu ngày, trong thành binh sĩ thiếu lương thực rất nguy ngập.

Có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây thoát nguy, nhưng ông cương quyết ở lại và nói : "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy Chúa thượng?"

Ông cho người trao cho Tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu một bức thư, đại ý nói: "Phận sự làm chủ tướng đành chịu chết dưới cờ không quản ngại, chỉ xin tha chết cho binh sï và những kẻ vô tội trong thành". Ông sai thuộc hạ lấy rơm cũi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào rồi châm ng̣òi tự hỏa thiêu. Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn.

Võ Tánh tuẫn tiết vào ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu, tức nhằm ngày 7 tháng 7 năm 1801.
Năm 1802 ông được vua Gia Long truy tặng Dực Vận Công Thần Thái Úy Quốc Công . Về sau vua Minh Mạng gia phong là Hoài quốc Công .

Mộ Võ Tánh nằm trong nội cung thành Hoàng Đế , tức thành Đồ Bàn xưa . Vua Gia Long lại cho nặn hình nhân bằng sáp pha trầm , đưa về Gia Định an táng ( ngôi mộ này hiện nằm trong hẻm số 19 đường Hồ văn Huê -Sài Gòn )

Trước 1975, Sài Gòn có hai đường Võ Tánh: một thuộc Phú Nhuận (gần khu mộ Võ Tánh, nay là đường Hoàng Văn Thụ), một là phần thuộc quận 1 của đường Nguyễn Trãi hiện nay.


[Hình: votanh1.jpg]

Tại đầu ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, hiện có ngôi đền thờ Võ Tánh mang tên là Võ Quốc Công Miếu.

[Hình: 2373639734_713a3d0589.jpg?v=0]
Lăng Võ Tánh trong di tích thành Hoàng Đế

Người con trai duy nhất của phò mã Võ Tánh và công chúa Ngọc Du là VÕ KHÁNH . (theo Văn Học Quốc Ngữ ở Nam Kì 1865-1930 " của Bằng Giang)
Võ Khánh giữ chức Chưởng Cơ , mất năm Minh Mạng thứ 12 . Võ Khánh có vợ và con nhưng vợ không phải là Bạch Thu Hà

Năm 1925 Nhà in Nguyễn Văn Viết đã ấn hành tác phẩm Giọt máu chung tình của tác giả Tân Vân Tử.

[Hình: bia%20giot%20mau%20chung%20tinh.jpg]

Tân Vân Tử tên thật là Nguyễn Hữu Ngỡi sinh năm 1875, quê quán ở huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định . Tân Vân Tử xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học. Ông nội là tú tài Nho học. Thân phụ tinh thông chữ Hán, làm chức Cai tổng.

Cũng như một số nhà văn, trí thức cùng thời , Tân Vân Tử được học chữ Hán từ nhỏ, lớn lên học trường Pháp Việt , vì vậy ông am tường cả Hán văn và Pháp văn.

Nền tảng học vấn "tân học" đã có tác động đáng kể đến ngòi bút của ông , nhất là dòng văn học Nam Kì 1865-1930 , với quyển tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên : " Thầy Lazarro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản .

Sau khi tốt nghiệp trường Thông ngôn Sài Gòn, Tân Vân Tử được bổ làm Kinh Lịch ở Chợ Lớn, về sau được thăng chức Huyện hàm. Ông có hai đời vợ và hai người con (một trai một gái). Năm 1953, ông bệnh và mất năm 1955 tại Sài Gòn, hưởng thọ 80 tuổi.

Tân Vân Tử được giới học giả ngày nay coi là nhà văn viết" tiểu thuyết lịch sử"đầu tiên và tiêu biểu nhất của văn học quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của ông gồm có:
Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây...

Tân Vân Tử viết tiểu thuyết giọt máu chung tình trong giai đoạn đất nước đang bị nạn xâm lăng. Với mong muốn là thức tỉnh những trái tim đang bị chà đạp và hơn hết là với tiêu chí " dân ta phải biết sử ta" để đánh động lòng yêu nước của người dân Gia Định.

Câu chuyện hư cấu được dàn dựng trên cái nền dã sử và mang đậm nét nho giáo nên khiến biết bao người rơi lệ. Một kết thúc không có hậu của một câu chuyện tình được viết theo lối cổ điển giống như kiểu Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga, khiến không biết bao trái tim đa cảm thời bấy giờ thổn thức và nhất là khi được soạn giả Nguyễn Trọng Quyền dàn dựng thành vở tuồng cải lương Giọt máu chung tình mà một thời Cô Bảy Phùng Há thủ vai Bạch Thu Hà.

Sau này soạn giả Viễn Châu còn cho ra đời bài vọng cổ Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà mà cho đến nay vẫn còn ngân nga trong làn hơi đờn ca tài tử. (Mãi cho đến năm 2011 tác phẩm kia được chuyển thể và cách tân lên thành bài Hận Tù Và do đào Hớ thể hiện đã làm nức lòng giới đê tiện).

Nhưng thời gian thì bào mòn. Vì thế cho nên khi nhắc đến Võ Đông Sơ và Bạch Thu hà người ta thương nhắc nhau nghe theo kiểu dân gian. Một phần thì không theo sách vở, một phần dựa theo tài liệu còn nhớ dựa trên cuốn tiểu thuyết Giọt máu chung tình hoặc giả trên các vở tuông cải lương ca cổ.

Chúng ta thường có thói quen xem lịch sử theo kiểu biền ngẫu, đó là kiểu nghe theo lời kể hoặc theo một tuồng tích nào đó không rõ ràng. Vì vậy người dân xứ Tiền vẫn đinh ninh câu chuyện Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà là một câu chuyện có thật. Niềm tin của người dân một khi đã ăn sâu vào trong tiềm thức thì khó thế nào cải chính. Nhưng với một người viết bài theo kiểu tuyên truyền thì tôi thật sự nghĩ phải nắm bắt đầy đủ thông tin. Những thứ ta vô tình cứ theo đà đó tạo ra vô số sự ngộ nhận tiếp theo không đáng có. Cũng giống như câu chuyện diễm tình Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà cho đến nay vẫn chưa có người cải chính.
Cảm ơn huynh đã cho đệ mở rộng tầm mắt. Bội phục, bội phục...!!!